Monday, June 07, 2010

Trí Húc Đại Sư, NGUYÊN DO PHÁP CHỈ QUÁN

NGUYÊN DO PHÁP CHỈ QUÁN

Tương truyền rằng:

Đại sư Trí Khải có người anh tên Trần Châm làm Tham tướng trong quân đội. Trần Châm được bốn mươi tuổi, một hôm đi đường gặp vị tiên tên Trương Quả Lão. Lão thấy tướng ông liền kêu lại bảo: “Ta xem tướng ông dương thọ đã hết, chỉ trong một tháng thì chết.” Trần Châm nghe qua kinh hãi, đến hỏi kế với Đại sư, Đại sư bảo: “Anh nghe theo tôi dạy tu trì, chắc chắn sẽ qua khỏi.” Trần Châm hứa vâng theo. Ngài bèn thuật pháp Tiểu Chỉ Quán đơn giản yếu lược này, bảo dụng công tu tập. Trần Châm y theo phương pháp tha thiết tu trì.

Hơn một năm, Châm gặp lại Trương Quả Lão, Lão thấy kinh ngạc, hỏi: “Ông không chết, có phải tại uống thuốc trường sanh chăng?” Châm đáp: “Không phải. Do em tôi là Trí Khải dạy tôi tu tập Chỉ, Quán tọa thiền nên được như vầy.” Lão khen: “Phật pháp không thể nghĩ bàn, hay phản tử hoàn sanh, thật là hi hữu!”

Mấy năm sau, Trần Châm mộng thấy đến Thiên cung. Trong ấy có đề: “Nhà của Trần Châm, mười lăm năm sau sẽ sanh lên đây.” Đúng mười lăm năm sau, Trần Châm từ biệt quyến thuộc, ngồi kiết-già yên ổn mà tịch.

Đây là nguyên do Đại sư Trí Khải thuật bộ Chỉ Quán này.

Đàm Loan Đại Sư

Đại sư người xứ Nhạn Môn, thuở nhỏ dạo chơi non Ngũ Đài, cảm điềm linh dị mà xuất gia. Ngài ưa thuật trường sanh, từng theo Đào Ẩn Cư thọ mười quyển Tiên Kinh. Sau gặp ngài Bồ Đề Lưu Chi, đại sư hỏi: “Đạo Phật có thuật trường sanh chăng?” Ngài Lưu Chi trao cho kinh Thập Lục Quán và bảo: “Đây là phép trường sanh của Phật Giáo”. Đại sư cả mừng, liền đốt Tiên Kinh, chuyên tu tịnh nghiệp, dù đau yếu cũng không tạm nghỉ. Ngụy chúa nghe danh phong cho hiệu là Thần Loan. Khi lâm chung, đại sư kêu chúng lại dạy rằng: “Biển trần lao khổ nhọc, không biết đâu là bến nghỉ ngơi, cảnh địa ngục rất đáng kinh sợ, môn Tịnh độ cần phải tu hành” Nói xong, bảo chúng cao tiếng niệm Phật hướng về Tây cúi đầu mà tịch. Khi ấy mọi người đều nghe tiếng thiên nhạc từ phía Tây trổi lên, giây lâu mới dứt.
 Đại sư dạy: “Ngoài bổn nguyện cầu sanh, lại cần phải phát lòng bồ đề, được vãng sanh cùng không, lấy đây làm chỗ y cứ”.
 Thế nào là “Thập niệm tương tục”. - Đáp: Ví như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp rút gươm rượt theo muốn giết, sợ hãi qúa chạy thẳng miết đến một con sông. Đến đây người ấy thoáng nghĩ: “Nếu qua được sông này ta mới mong bảo toàn thân mạng, nhưng bây giờ để y phục lội sang hay là cởi bỏ? Nếu để y phục sợ e sông rộng vướng mắc lội không thoát còn cởi bỏ thì không kịp vì giặc đuổi gần tới! Bấy giờ người ấy chỉ có một niệm tìm phương tiện làm sao cho qua được sông thôi, tuyệt không có ý nghĩ chi khác. Hành giả niệm Phật lại cũng như thế, chỉ chuyên thiết niệm, không có tạp tưởng, tâm tâm nối nhau cho đến mười niệm, gọi là “Thập niệm tương tục”.
 Người niệm Phật khi bình thời nên ước hẹn với năm ba bạn đồng tu, đến lúc lâm chung nhắc nhở trợ niệm lẫn nhau. Như thế sự vãng sanh mới có phần vững chắc.

http://www.thuvienhoasen.org/quehuongcuclac-03.htm

Đại sư Đàm Loan thì sanh ở Nhạn Môn, năm đầu niên hiệu Thừa Minh đời Hậu Ngụy Hiếu Văn Đế (Tây Nguyên 476), hai ngài có một khoảng thời gian cách nhau 60 năm. Năm 15 tuổi, ngài Đàm Loan phát tâm xuất gia, đối với các môn nội và ngoại điển ngài đều nghiên cứu qua, nhưng đặc biệt đối với: Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận, Đại trí độ luận và Phật tánh luận, ngài lại có tâm đắc sâu sắc nhất. Đại tập kinh trong Đại tạng là kinh điển trọng yếu nói về lý rất sâu, ngài phát tâm chú giải bộ kinh Đại tập đó, nhưng việc vừa mới hoàn thành một nửa thì không may ngài lâm bệnh, không thể nào tiếp tục công việc được. Ngài nghĩ đến sanh mạng vô thường, đại nghiệp khó thành, cho rằng muốn thành tựu một sự kiện đại trọng này nếu không được trường sanh thì không thể nào thành tựu được. Do đó, ngài bắt đầu đi học đạo Tiên, mong nhờ vào Tiên thuật mà sau đạt được trường sanh bất lão, rồi trở lại hoằng dương Phật pháp. Khi ấy ở Giang Nam có người tên Đào Hoằng Cảnh tinh thông về đạo thuật, học giả nam bắc đều về đây học Tiên thuật rất đông, ngài Đàm Loan cũng đến núi Cú Dung (tỉnh Giang Tô), yết kiến lễ bái tham vấn vị này. Từ đây, ngài được Đào Hoằng Cảnh trao cho mười quyển kinh về Tiên thuật, rồi đến phương bắc để hạ thủ tu tập. Khi đi đến Lạc Dương tình cờ gặp ngài Bồ-đề-lưu-chi từ Bắc Thiên Trúc qua Hoa Hạ. Hai người luận đàm Phật pháp, nhân đây ngài Đàm Loan mới hỏi: “Trong Phật pháp có gì hơn thuật trường sanh bất tử của Đạo gia tiên kinh Trung Quốc không?”. Bồ-đề-lưu-chi nghe ngài Đàm Loan hỏi vậy, ngài liền biết sự nhận thức Phật pháp của ngài Đàm Loan còn nông cạn, bèn khai thị cho Ngài: “Đạo gia của Trung Quốc trình bày pháp trường sinh, thực tế không thể hy vọng gì. Dựa vào những gì ông học được, tuy nói có thể đạt được trường sanh nhưng không thể vĩnh viễn không chết được, rốt cuộc rồi cũng luân hồi trong sanh tử, chẳng làm sao giải quyết thực sự vấn đề sanh tử. Nhưng muốn chấm dứt dòng chảy sanh tử thì chỉ có dựa vào Phật pháp mà thực hành. Bây giờ tôi có bôï kinh Quán vô lượng thọ, tôi tặng ông, ông có thể dựa vào đây mà tu tập, nhất định ông giải thoát khỏi sanh tử”. Ngài Đàm Loan nghe lời phân tích khai thị của ngài Lưu-chi, bèn đem sách tiên thuật đốt đi, từ đó chuyên tu pháp môn Tịnh độ, và ngài nhận thức về Tịnh độ rất thâm áo. Ngài có trước tác bộ Vãng sanh luận chú, Lược luận an lạc Tịnh độ nghĩa, Tán A-di-đà Phật kệ … . Ngài hết sức xiển dương pháp môn niệm Phật, hoằng thông nhờ tha lực, tự lợi lợi tha phổ hoá rộng khắp.
http://www.thuvienhoasen.org/luansutongtinhdo-10.htm

Trí Húc Đại Sư

Trí Húc Đại sư tự Ngẫu Ích, người đời Thanh, họ Chung, nhà ở Ngô huyện. Thân phụ thọ trì chú Đại Bi và Bạch Y, mộng thấy đức Quán Âm đại sĩ trao cho một đứa bé trai mà sanh ra ngài.

Thuở niên thiếu ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau nhân xem bộ Trúc Song Tùy Bút của Liên Trì Đại Sư, liền đốt quyển sách của mình viết. Năm hai mươi tuổi, ngài đọc kinh Địa Tạng Bản Nguyện phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng niệm Phật.

Niên hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài hai mươi bốn tuổi, sau khi nghe một pháp sư giảng kinh, bỗng phát nghi tình, dụng công tham cứu. Ít lâu sau, được tỏ ngộ, liền đóng cửa nhập thất ở Ngô Giang. Thời kỳ ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bịnh vừa bớt, liền kết đàn trì chú Vãng sanh một thất, đốt ba liều nơi cánh tay, thề phát lòng bồ đề cầu sanh Cực Lạc, để mau chứng đạo qủa, sớm độ chúng hữu tình.

Về sau, Đại sư trụ trì trải qua các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và môn niệm Phật. Thời bấy giờ, những ta tu thiền ở các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh độ là quyền giáo; khi gặp người niệm Phật, tất bảo tham cứu chữ Thùy. Riêng Đại sư lại nhận định pháp Trì danh chính là tâm tông viên đốn. Có ông Trác Tả Xa, một nhà tu thiền, đem những huyền lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh độ, ngài liền trả lời một cách thỏa đáng. Sau đó, Đại sư về dưỡng lão ở Linh Phong.

Bình thời, Đại sư từng khai thị rằng: Pháp môn Tịnh Độ không chi chi lạ kỳ đặc biệt, yếu điểm chỉ là tin sâu, nguyện thiết và gắng sức thật hành mà thôi. Phật dạy: "Nếu người nào chuyên niệm A Di Đà, chính là Vô thượng thâm diệu thiền". Trí Giả đại sư bảo: "Niệm Phật tam muội là vua trong các môn tam muội". Tổ Vân Thê cũng nói: "Một câu A Di Đà Phật bao trùm tám giáo, tròn nhiếp năm tông".

Đáng tiếc người thời nay xem niệm Phật là cạn cợt tầm thường, bảo đó là là công hạnh của hạng ngu phu, ngu phụ. Bởi thế nên lòng tin không chắc, chẳng gắng sức thật hành, trọn ngày lơ là, công phu khó thành tựu. Có kẻ lại lập phương tiện khéo bảo:"Muốn đi sâu vào niệm Phật tam muội phải tham cứu chữ Thùy". Họ đâu biết rằng: Một tâm niệm hiện tiền, vốn đã tự rời tứ cú, tuyệt bách phi, chẳng cần phải tác ý rời và tuyệt. Một câu niệm Phật là hiện tại, cũng vốn vưọt tình lìa kiến, cần chi nói diệu nói huyền? Chỉ quí tin cho chắc, giữ cho vững, rời buông bỏ hết mà niệm. Hoặc mỗi ngày đêm niệm một muôn, hai muôn, năm muôn, bảy muôn, mười muôn câu lấy sự nhất định không thiếu làm tiêu chuẩn. Như thế quyết giữ đến trọn đời, thề không biến đổi. Và nếu đúng như thế mà không được vãng sanh, thì chư Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ. Một khi được về Cực Lạc, vĩnh viễn không còn thối chuyển, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền.

Rất kiêng kỵ kẻ không có chủ trương, nay vầy mai khác. Khi gặp nhà thuyết giáo, thì muốn tầm chương trích cú, học luật học kinh. Gặp người tu thiền lại mong tham cứu thoại đầu, theo cơ phong chuyến ngữ. Gặp bậc trì luật, ưa thích ôm bát khất thực, tu hạnh đầu đà. Thế nên sự sự không rồi, điều điều chẳng trọn. Đâu biết rằng khi câu Phật hiệu niệm được thuần thục, thì ba tạng, mười hai phần kinh gồm ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, cơ quan hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng ở trong đó.

Người chân thật niệm Phật, buông bỏ cả thân tâm thế giới là đại bố thí. Niệm Phật không khởi tham sân si là đại trì giới. Niệm Phật không quản nhân ngã thị phi là đại nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đọan, không tạp vọng là đại tinh tấn. Niệm Phật không còn vọng tưởng thô tế là đại thiền định. Niệm Phật không bị các pháp khác mê hoặc là đại trí huệ. Thử kiểm điểm lấy mình, nếu chưa quên thân tâm thế giới, chưa dứt niệm tham sân si, chưa tuyệt lòng thị phi nhân ngã, chưa hết gián đoạn tạp vọng, chưa trừ vọng tưởng bông lông, chưa khỏi bị pháp khác cuốn lôi mê hoặc, thì chưa phải là người chân thật niệm Phật.

Nếu muốn đến cảnh giới nhất tâm bất loạn, cũng không có cách gì lạ. Khi mới tập niệm, dùng chuỗi ký số rành rẽ, và khắc định thời khóa đừng để cho thiếu sót. Như thế lâu ngày, công phu tụ thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm. Chừng đó, muốn ký số hay không ký số cũng được. Nếu bước đầu, vội vàng lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học hỏi lối viên dung tự tại, rốt niệm lực khó thành. Đây tổng yếu bởi tin chưa sâu, thực chành chưa hết sức.

Người như thế, dù cho giảng thông thuộc ba tạng mười hai phần kinh, thấu suốt một ngàn bảy trăm công án, cũng đều là việc bên bờ sống chết luân hồi mà thôi. Kẻ ấy đến lúc lâm chung, quyết định không dùng chi được....!

Năm Thuận Trị thứ hai, vào cuối Đông, Đại sư cảm bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ tử, sau khi trà tỳ, phải tán nhuyễn xương trộn với bột hòa thành viên, chia thí cho loài cá chim để kết duyên Tịnh độ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21 tháng giêng, Đại sư sáng dậy sớm, sắc diện tươi khỏe như người không bịnh. Đến đúng ngọ, ngài đoan tọa trên giường, xây mặt về Tây chấp tay niệm Phật mà tịch, thọ được 57 tuổi.

Ba năm sau, các môn nhân hội lại, định y pháp làm lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra thấy toàn thân đại sư vẫn còn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặc tươi tỉnh như sống. Đại chúng không nỡ tuân lời di chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh Phong.

Dịch Việt: HT. Thích Thiền Tâm
http://tinhdo.net/cac-vi-to-tinh-do/64-dai-su-tri-huc.html