Sunday, January 21, 2007

4 Vị Sư 4 Kỷ Lục Phật Giáo: Uyên Bác, Công Trình Lớn..

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh : Nhà Phiên Dịch Kinh Tạng Việt Nam

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh : Nhà Phiên Dịch Kinh Tạng Việt Nam

đăng ngày 09/10/2006

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Nhà Phiên Dịch Kinh Tạng Việt Nam


...... ....

Tiểu sử
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh


Hòa Thư­ợng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hư­ng ( Cái Tàu Th­ượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.

Hòa Thư­ợng có 7 anh chị em, H.T là ngư­ời con thứ 7 trong gia đình. Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo. Hòa Thư­ợng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi lên 7 tuổi, chỉ sống với người anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng và đi học lên đến lớp 7. Lúc lên 15 tuổi Ngài nghỉ học sang học nho với Cậu và học thuốc với ngư­ời anh.

II- THỜI GIAN HỌC ĐẠO:

Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ đời là huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn Thiền môn trong Tỉnh đều không hài lòng. Sau đó mới tìm lên núi Cấm, vì nghĩ ở đó sẽ có các bậc chơn tu. Hòa Thư­ợng bèn tìm lên núi, lần l­ược đến chùa Vạn Linh cầu xin xuất gia. Hòa Thư­ợng trụ trì ở dây Pháp húy là Hồng Xứng. Khi vừa trông thấy, Tổ liền ấn chứng “Các ông đừng khinh ông nầy,vì đời trư­ớc ổng đã từng làm Hòa Th­ượng, như­ng có tội hay nhìn con gái, nên nay bị bịnh con mắt suốt đời”. Sau khi đ­ược Tổ cho phép xuất gia, ban cho Pháp danh Thiện Chánh, hiệu Hân Tịnh, húy Nhật Bình, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.

Sau khi xuất gia, Hòa Thư­ợng chuyên lo niệm Phật tịnh tu, đ­ược một thời gian Hòa Thư­ợng xin đi tham học với chư­ sơn Thiền đức trong Tỉnh, và nghiên cứu những tài liệu về Phật Pháp in trong tập chí Từ Bi Âm, do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học Chùa Linh Sơn Saigon ấn hành, rồi đi ra miền Trung tham học ở Chùa Liên Tôn, Bình Định.

Năm 1936, Hòa Th­ượng đi ra Huế gặp quý Hòa Thư­ợng Thiện Hòa, Thiện Hoa vừa mãn khóa ở Chùa Tây Thiên do Hòa Thư­ợng Giác Nhiên, là Tăng Thống thứ hai GHPGVNTN làm trụ trì, và Hòa Thư­ợng Thiền Tôn làm Giám Đốc. Khi Hòa Thư­ợng đ­ược vào học thì lớp nầy đang học năm thứ sáu Sơ cấp, Hòa Thư­ợng tiếp tục học lên Trung cấp và học lớp Cao Đẳng tại Phật Đường Báo Quốc do Ngài T­ường Vân làm Giám Đốc, Hòa Thư­ợng Trí Độ làm Đốc Giáo.

Năm 1941, Hòa Thư­ợng thọ Sa Di giới tại Chùa Quốc Ân và đư­ợc Sư­ cụ Trí Độ cho pháp tự là Trí Tịnh.

Năm 1945, mãn Khóa Cao Đẳng Phật Học, lúc đó tình hình chiến cuộc leo thang, vật giá khó khăn. Lớp học dời về Tòng Lâm Kim Sơn, sau vì nạn đói Huế cũng nh­ư ở Miền Bắc, Tr­ường không thể duy trì được, nên Ban Giám Đốc cũng như­ Hội An Nam Phật Học quyết định giao trách nhiệm cho Hòa Thư­ợng h­ướng dẫn một số ch­ư Tăng vào Nam để tiếp tục mở tr­ường cho chư­ Tăng tu học.

III. THỜI GIAN HÀNH ĐẠO:

Khi về đến Miền Nam, số học Tăng nầy tạm ở Chùa Vĩnh Tràng Mỹ Tho, còn Hòa Thự­ơng Thiện Hoa và Trí Quang đi Lưỡng Xuyên lo sắp xếp trư­ờng ốc, Riêng Hòa Thư­ợng về Chùa Kim Huê ở Sa Đéc tịnh tu một thời gian.

Cách Mạng tháng 8 năm 1945 phát động, Tr­ường Phật học Lưỡng Xuyên bị phân tán, Hòa Thư­ợng hợp tác với Hòa Th­ượng Thiện Hoa dời về Trà Ôn lập Phật Học Đư­ờng Phật Quang thuộc Tỉnh Cần Thơ, do Hòa Thư­ợng Thiện Hoa làm Giám Đốc, còn Hòa Thượng làm Đốc Giáo kiêm Giáo Thọ.

Để viên mãn tam Đàn cụ Túc, năm 1945 Hòa Th­ượng đ­ược đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Chùa Vạn An, Sa Đéc do Hòa Thượng Kim Huê làm Đàn đầu Hòa Thư­ợng.

Năm 1946, khi tình hình chiến tranh Việt Pháp leo thang lớp học bị dao động trầm trọng, một số chư Tăng đã theo tiếng gọi của non sông, cởi áo Cà sa khoác chiến bào, tham gia kháng chiến chống Pháp. Do đó, Hòa Thư­ợng không thể giảng dạy được, nên Ngài quyết định dời về Saigon và lập Phật Học Đư­ờng Liên Hải tại Chùa Vạn Phư­ớc, xã Bình Tri Đông, huyện Hư­ng Long Thượng tỉnh Chợ Lớn. Do Hòa Th­ượng làm Giám Đốc Hòa Th­ượng Huyền Dung làm Đốc Giáo. Năm 1949 nơi đây Hòa Th­ượng Bửu Huệ và Quảng Liên đư­ợc Thọ Đại Giới do Hòa Thư­ợng Trí Tịnh tổ chức Đại Giới Đàn nầy. Thầy Minh Cảnh cũng xuất gia ở đây.

Năm 1950, khi Hòa Thư­ợng Thiện Hòa, sau một thời gian du phương học đạo, từ Bắc trở về Nam, Hòa Thư­ợng đã kết hợp ba trường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành một gọi là Phật Học Đường Nam Việt đặt tại Chùa Sùng Đức.

Năm 1951, dời về Chùa Ứng Quang do Hòa Thư­ợng Trí Hữu cúng và đổi tên là Chùa Ấn Quang, do Hòa Th­ượng làm Giám Đốc và cũng là Thành phần trong Ban Giảng huấn, giảng dạy cho lớp Cao Đẳng Phật Học từ năm 1951-l954. Cũng trong năm nầy, Hội Chùa Linh Sơn thỉnh Hòa Thư­ợng làm trụ trì và giao toàn quyến quản lý.

Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt đ­ược thành lập tại Saigon, Hòa Thư­ợng đ­ược giữ chức Tr­ưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban Giám luật, kiêm Ủy viên phiên dịch Tam tạng, và Phó Trị Sự Trư­ởng.

Năm 1953, Hòa Thư­ợng đích thân và sáng kiến thành lập Cực Lạc Liên Hữu do Ngài làm Liên Trư­ởng, Thư­ợng Tọa Huệ Hư­ng làm Liên phó tại Chùa Liên Trì , Tỉnh Ph­ước Tuy (bà Rịa)

Năm 1954, Hòa Thư­ợng khởi công xây dựng. Chùa Vạn Đức với một quy mô lớn. Đến năm 2004 Hòa Th­ượng cho xây lại theo mô hình mới.

Năm 1955, với chí nguyện hoằng d­ương Tịnh Độ, Hòa Thư­ợng lại thành lập Cực Lạc Liên hữu khuyên ng­ười niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, tại Chùa Vạn Đức.

Năm 1957, Hòa Thư­ợng đư­ợc Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử làm Trị sự Phó và kiêm tr­ớng Ban Giáo dục GHTGNV. Đồng thời hợp tác với Hòa Th­ượng Thiện Hòa, HT Thiện Hoa mở các Khóa Như­ Lai Sứ Giả tại Chùa Pháp Hội, Chùa Tuyền Lâm Chùa D­ược S­ư...để đào tạo cán bộ, Trụ trì và Giảng S­ư cho Giáo Hội.

Năm 1959, trong Đại Hội Giáo Hội Tăng Già toàn quốc kỳ II, ngày 02 tháng 10 PL 2502 Kỷ Hợi ( 11-9-1959 ) tại Chùa Ấn Quang. Hòa Th­ượng được Đại Hội suy cử làm Trị Sự Phó Giáo Hội Tăng Già toàn quốc.

Năm 1962, Hòa Th­ượng đư­ợc GHTGTP cử làm Phó Viện Trư­ởng Phật Học Viện Trung phần Nha Trang, thay cho Hòa Thư­ợng Trí Quang vì bận Phật sự ở Sai gon.

Năm 1964, Hòa Th­ượng làm tr­ưởng đoàn Đại biểu GHTGNV tham dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, đư­ợc tổ chức tại Chùa Xá Lợi trong những ngày 30,31 tháng 12/1963 và 01/01/1964, để thành lập GHPGLVNTN và trong đại hội này, Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm TV trưởng Tổng vụ Tăng sự

Năm 1968-1971 Hòa Thượng làm Ban giảng huấn Phật Học Viện Huệ Nghiêm, và dạy cho lớp nầy 3 năm. Năm 1970, Hòa Thư­ợng được Hòa Thư­ợng Minh Châu mời làm khoa trư­ởng Phân Khoa Phật Học, thuộc Đại Học Vạn Hạnh đến năm 1975.

Năm l971, sau khi Giáo Hội thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Hòa Th­ượng đ­ược cử làm Viện Tr­ưởng từ năm 1971 đến năm 1991.

Năm 1973, trong phiên họp Hội Đồng giáo Phẩm Trung ­ương kỳ IV Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Thành viên Hội Đồng giáo phẩm Trung ư­ơng và Phó Viện Tr­ưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.

Ngày 05/07/1973, Hòa Th­ượng đ­ược cử làm Chủ Tịch Hội Đồng phiên dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống GHPGVNTN.

Năm l974 Ngài đư­ợc Hòa Thư­ợng Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội Đồng quản trị Tổ Đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc .

Năm 1975, Hòa Th­ượng đư­ợc Hội Đồng giáo phẩm Trung ư­ơng cử làm Tr­ưởng ban kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã Linh Xuân Thôn, Thủ Đức Gia Định.

Năm 1976, Hòa Thư­ợng đư­ợc mời làm Ủy viên UBTWGHPGVN.

Năm 1980, đầu Xuân Canh Thân sau khi đất nư­ớc hoàn toàn độc lập, giang sơn nối liền một dãy, Bắc Nam sum họp một nhà, tất cả mọi sự sinh hoạt, từ phư­ơng diện kinh tế, chính trị, xã hội đều thống nhứt trong phạm vi cả nư­ớc, đó cũng là một thuận duyên cho Phật Giáo Việt Nam thống nhất thành một mối.

Do đó, trong phiên họp hội thảo của Chư­ tôn Hòa Th­ượng, Th­ượng Tọa, Đại Đức, Cư­ sĩ của các tổ chức Giáo Hội, thuộc hệ phái Phật Giáo Thành phố HCM để thảo luận ch­ương trình thống nhất Phật Giáo. Kết quả một Ban vận động Thống Nhất Phật Giáo ra đời do Hòa Th­ợng Trí Thủ làm Tr­ưởng Ban và Hòa Th­ượng làm Phó Trưởng ban vận động, kiêm Tr­ưởng Tiểu Ban Nội dung.

Trong Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, đư­ợc tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, từ ngày 04- 07/11/1981 Hòa Th­ượng được suy tôn làm thành viên Hội Đồng Chứng Minh và Phó Chủ Tịch thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung ương GHPGVN, kiêm Tr­ưởng Ban Tăng Sự Trung ­Ương.

Năm 1982, trong Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo TP.HCM. nhiệm kỳ I, Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Trư­ởng Ban Tri Sự THPG TP.HCM. đến năm 1987.

Năm 1984, sau khi Hòa Thư­ợng Trí Thủ, Chủ Tịch Hội Đồng trị sự Trung ­ương GHPGVN viên tịch vào ngày 01 tháng 3 năm Giáp Tý PL. 2527 ( 4/1984 ). Hòa Thư­ợng đ­ược cử làm Quyền Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung ư­ơng, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự nhiệm kỳ II và những nhiệm kỳ tiếp theo .

Năm l984 tháng 12 trong Đại Hội UBMTTQVN TP. HCM lần thứ 4, Hòa Th­ượng đ­ược Đại Hội cử làm Phó Chủ Tịch UBMTTQVN TP. HCM.

Tại Đại Hội kỳ III- 1992, Hòa Th­ượng đ­ược Đại Hội suy tôn lên ngôi vị Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh GHPGVN.

Trong Đại hội UBMTTQVN lần thứ 3, Hòa Thư­ợng đ­ược Đại Hội cử làm Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch UBTWMTTQVN, và tại Đại Hội nhiệm kỳ 4 Hòa Thư­ợng đư­ợc cử làm Phó Chủ Tịch UBTWMTTQVN.

IV. THỜI GIAN TRUYỀN GIÁO:

Năm 1960, 1961, 1962, Hòa Thư­ợng làm Giới Luật S­ư trong các Giới Đàn, tể chức tại Ấn Quang, Pháp Hội ...để truyền trao giới Pháp cho chư­ Tăng.

Năm 1964 Hòa Thư­ợng làm Tuyên Luật sư­ trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Saigon

Năm 1965, Hòa Thư­ợng làm Yết ma trong Giới đàn Sa di , được tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định và Tuyên Luật sư­ Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên Huế.

Năm 1966, Hòa Thư­ợng làm Tuyên Luật sư­ trong Đại Giới đàn Quảng Đức, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm- Gia Định ..

Năm l9ó8, Hòa Th­ượng làm Giáo Thọ A Xà Lê-Đại giới đàn Hải Đức - Nha Trang .

Năm 1969, Hòa Th­ượng làm Tuyên Luật s­ư trong Đại Giới đàn Quảng Đức II, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định.

Năm 1984 đến năm 2002 Hòa Thư­ợng đ­ựợc cử làm Hòa Th­ượng Đàn Đầu, Đại Giới Đàn đầu tiên và những Đại giới Đàn tiếp theo của Thành Hội Phật Giáo đư­ợc tổ chức tại Chùa Ấn Quang.

Về việc phiên dịch:

1. Kinh Pháp Hoa (xem kinh này, trọn bộ)

2. Kinh Hoa Nghiêm (xem kinh này, trọn bộ 8 cuốn)

3. Kinh Đại Bát Niết Bàn (xem kinh này, trọn bộ 9 cuốn)

4. Kinh Đại Bát Nhã

5. Kinh Đại Bảo Tích (xem kinh này, trọn bộ 9 tập)

6. Kinh Phế Hiền Hạnh nguyện

7. Kinh Địa Tạng

8. Kinh Tam Bảo

9. Kinh Pháp Hoa cư­ơng yếu Tóm tắt

10. Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa Tóm tắt

11. Luật Tỳ kheo giới bổn

12. Luật Bồ tát giới bổn

13. Đ­ường về Cực Lạc

14. Cực Lạc liên huân tập

15. Ngộ Tánh luận

16. Pháp Hoa cư­ơng yếu

17. Kinh A Di Đà (xem kinh này)

18.
Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ (xem kinh này)

19. Kinh Vô Lượng Thọ Phật .
(xem kinh này)


Về mặt xây dựng:

Năm 1997, Hòa Th­ượng khởi công xây dựng lại Chùa Vạn Linh và Tháp Tể Hồng Xửng- Núi Cấm, huyện Tịnh Biên, Tỉnh An Giang.

Năm 2000, với tư­ cách Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự GHPGVN. Hòa Thư­ợng đã ký quyết định v/v thông qua dự án và Bổ nhiệm ban trùng tu cơ sở văn Phòng 2 Trung ­ương Giáo Hội Thiền Viện Quảng Đức, Q.3 TP. HCM. Năm 200, Hòa Thư­ợng trùng tu lại Giảng đường Chùa Vạn Đức, Phật Đài Quan Âm, Th­ư viện, Thiền thất, phòng sách v.v..

Năm 2004, Hòa Thư­ợng khởi công xây dựng lại Chánh Điện, nhà Tổ chùa Vạn Đức với qui mô lớn, trang nghiêm tú lệ đã thành tựu viên mãn, xứng đáng là cơ sở Giáo Hội tại địa phương.

Hình ảnh
Lễ Khánh Tuế
Hoà Thượng Thích Trí Tịnh



(xem tiếp)

http://giaodiemonline.com//noidung_detail.php?newsid=411

Pháp Hải sinh năm 1895 tại làng Thong Dong ở Sa Đéc





Thiền sư Minh Trí tên đời là Nguyễn Văn Bồng, sinh năm 1885 tại Sa Đéc.

THIỀN SƯ PHÁP HẢI VÀ THIỀN SƯ CHÍ THÀNH

Về các thiền sư Huệ Quang và Khánh Anh, ta sẽ có dịp nói tới trong một chương sau. Ở đây ta phải nhắc tới thiền sư Pháp Hải, một người đã từng triệt để tùy hỷ và ủng hộ công trình của Khánh Hòa. Pháp Hải sinh năm 1895 tại làng Thong Dong ở Sa Đéc, tên đời là Nguyễn Văn An, xuất gia năm mười bảy tuổi, hòa thượng chùa Tây Hưng tịch, ông đều cầu học với hòa thượng chùa Long Phước, Vĩnh Long. Năm hai mươi tám tuổi, ông trú trì chùa Phước Sơn ở quận Trà Cú tỉnh Trà Vinh. Năm 1933 và 1934, ông đảm trách việc giảng dạy cho Liên Đoàn Học Xã do Khánh Hòa tổ chức tại các chùa Long Hòa, Thiên Phước và Viên Giác. Khi hội Lưỡng Xuyên Phật Học thành lập, ông nhận chức vụ trú trì chùa Long Phước, trụ sở của hội đồng thời ông cũng làm giáo sư cho Phật học đường Lưỡng Xuyên. Sáu năm sau, ông nhận lời về trú trì chùa Hiệp Châu ở Sóc Trăng để hướng dẫn Phật sự cho chi hội Kế Sách của hội Lưỡng Xuyên Phật Học. Bốn năm sau, ông trở lại chùa Long Phước. Sau khi Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập tại chùa Ấn Quang Sài Gòn (1951), ông được mời ra làm trị sự trưởng cho Giáo Hội tại Vĩnh Long. Ông mất năm 1961 vào ngày mồng sáu tháng Tám âm lịch, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi.

(48) Hội Tịnh Độ Cư Sĩ là hậu thân của một hội khác tên là hội Lễ Bái Lục Phương thành lập trên căn bản kinh

Thi Ca La Việt. Hội có một trú sở nhánh tại chùa Hưng an ở Cà Mau, khánh thành vào ngày 24.2.1937. Những nhân vật chính của hội là các ông: Lương Văn Đường, Nguyễn Văn So, Lê Văn Chim, Lại Văn Giáo, Phạm Đình Vĩnh, Trương Văn Thủ, Trần Văn Nhân, Đặng Văn Thìn, Ngô Quang Minh, Ngô Văn Thắng và Nguyễn Văn Thiên.

Thiền sư Minh Trí tên đời là Nguyễn Văn Bồng, sinh năm 1885 tại Sa Đéc. Ông xuất gia năm 33 tuổi và thường hay vân du tìm hái những cây lá có được tính để cứu bệnh cho người. Hội Tịnh Độ Cư Sĩ được thầnh lập năm ông 48 tuổi. Chùa Tân Hưng Long làm lễ khánh thành vào năm 1936. Chính vào năm đó ông được tín đồ xưng là Tông Sư Minh Trí

http://www.quangduc.com/lichsu/17vnpgsuluan3-27.html

CHỚ LÀM CÁC VIỆC ÁC



CHỚ LÀM CÁC VIỆC ÁC
Not to do Evil
VÂNG LÀM CÁC VIỆC LÀNH
To do good
TỰ LÓNG TÂM Ý MÌNH
Purify one 's Mind
ĐÂY LỜI CHƯ PHẬT DẠY
This is the Buddhas ' teachings
1/ http://niemphatthanhphat.blogspot.com
2/ http://nammoadidaphat.blogspot.com

3/ http://namoamitabhabuddhatheky21.blogspot.com

4/ http://internationalpurelandbuddhism.blogspot.com

5/ http://phapmonniemphat.blogspot.com/ [ TRANG KINH DIEN DAI THUA BANG ANH ngu]


Tây Tạng: Biển Người Trung Hoa Đổ Vào

AFP/Getty Images

Đức Đạt Lai Lạt Ma thắp ngọn đèn để bắt đầu nghi thức lễ Phật Đản năm thứ 2250 tại Bengal Buddhist Association tại Kolkata, Ấn Độ hôm 15-1-2007. Trong buổi nói chuyện nhan đề “Đạo Đức Trong Xây Dựng Con Người” cùng ngày tại Kolkata tổ chức bởi Hội Thanh Niên Phụng Sự, Đức Đạt Lai Lạt Ma bày tỏ lo ngại vì dân Trung Hoa đang biển người tràn vào Tây Tạng, “Để có tự trị đúng nghĩa, dân số nơi đó cần phải phần lớn là Tây Tạng.”

http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=14&nid=100931

Nhà Sư Người Hoa Kỳ Được Bổ Nhiệm Làm Vị Đại Biểu Hoa Kỳ Đầu Tiên Trong Hội Nghị Cao Cấp Phật Giáo Thế Giới

Seattle, Washington (Hoa Kỳ) -- Nhà sư Phật giáo người Hoa Kỳ, Sayadaw Gyi Vimalaramsi Maha Thera, ngày nay được biết đến nhiều như là thượng tọa Vimalaramsi, vừa nhận lá thư vào hôm thứ sáu, ngày 15 tháng 12, chính thức công nhận Sư là vị Đại Biểu đầu tiên cho Hoa Kỳ tại Cuộc Họp Mặt Thượng Đỉnh Phật Giáo, đó là Hội Nghị Cao Cấp Phật Giáo Thế Giới.

Xin xep tiếp trong Tin Văn Hóa.

http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=14&nid=100042

THÀNH KÍNH ĐẢNH LỄ CỐ HÒA THƯỢNG THƯỢNG THIỆN HẠ THANH

Tiểu Sử Cố Hòa Thượng Khai Sơn Chùa Phật Tổ

Thượng Thiện Hạ Thanh



(1935 - 1995)



Thượng toạ Thích Thiện Thanh , thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú Nhuận-Nha Mân, tỉnh Sa Đéc miền Nam nước Việt, sinh năm Ất Hợi (1935). Song thân ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ bà Huỳnh Thị Thâu.

Ngài là bậc đồng chơn nhập đạo. Lúc tám tuổi ngài được Đại Lão Hòa Thượng thượng Bửu hạ Chung tiếp độ tại chùa Phước Long Cổ Tự tỉnh Sa Đéc và bổ sư của ngài là Hòa Thượng Huệ Hòa thuộc dòng Lâm Tế gia phổ. Năm lên 15 tuổi ngài thọ Sa di giới với Đại Lão Hòa Thượng thượng Chánh hạ Quả, tại tổ đình Kim Huê tỉnh Sa Đéc với pháp hiệu là Không Sắc, húy Nhất Thanh.

Năm 20 tuổi ngài thọ đại giới cùng đậu cấp bằng Hán ngữ học tại Trung Tâm Ấn Quang và ngài giảng pháp lần đầu tiên tại Long Quang Tự đường Nguyễn Huỳnh Đúc, quận Phú Nhuận (1961).

Năm 1964 ngài được bổ nhiệm làm việc với Tổng Vụ Tăng Sự, phụ trách nghành Tăng Tịch và kiêm nhiệm Trưởng Ban Tăng Tịch cho chùa Ấn Quang.

Ngài đậu Tú Tài toàn phần năm 1965, dạy Pháp văn tại trường Bồ Đề Chợ Lớn và du học Thái Lan do chính phu Thái đài thọ.

Năm 1967 ngài từ Thái Lan sang Ấn Độ nghiên cứu các đề tài thuộc về Phật Giáo Nguyên tại Viện Nalanda Pali Research Institute, Bihar.

Năm 1971 ngài đậu thêm Cử Nhân và Cao Học Anh Văn.

Năm 1976 ngài đậu Tiến Sĩ tại Đại Học Magadha Gaya với luận án "A Comparative Study of the Pali Digha Nikaya and China Agama" so sánh Trường Bộ Kinh với Kinh Trường A Hàm. Ngài còn là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá trị như: Phật Giáo Ấn Độ Ngày Nay, Phật Giáo trong Việt Nam, Ấn Độ, hay Trung Hoa, Hoàng Đế Asoka, Bốn Đức Tánh Cao Quý của Giác Ngộ, và v.v. Ngài được chính phủ Ấn Độ mời dạy ngữ học và lịch sử tại Đại Học Sri VekaTesvana, Tirapati. Trước đó ngài cũng đã được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa mời về làm Viện Trưởng Đại Học Cần Thơ.

Năm 1978 ngài từ việc ở Đại Học Sri VekaTesvana, Tirapati, sang Mỹ dưới sự bảo trợ của chùa Việt Nam (Los Angles), nhận chức Phó Chủ Tịch Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ (12/78), kiêm giảng sư của Đại Học University of Oriental Studies tại Los Angles.

Năm 1979 ngài nhận chức Giám đốc Trung Tâm Tỵ Nạn Đông Dương.

Kể từ thập niên 80 cho đến nay ngài về Long Beach, thành lập hội Phật Giáo Long Beach và xây dựng Tự Viện Phật Tổ. Với ý chí phục vụ đạo pháp và hướng dẫn Phật tử sống xa thành phố Los Angles, ngài không quản khó khăn, tận tụy hoằng hóa độ sanh cho đến hơi thở cuối cùng. Quả thật vậy, tuy thân xác ngài thập tử nhất sinh ở bệnh viện nhưng tâm niệm ngài vẫn không ngớt âu lo cho lễ Phật Đản tại chùa.

Nhưng niềm lo lớn nhất của ngài là công việc nghiên cứu và dịch thuật đang dang dở; ngài đã thực hiện được: tập "Nghi Thức Tụng Kinh Niệm Hàng Ngày" - ngắn gọn và dễ hiểu phù hợp với nhu cầu thiết yếu của giới Phật tử hải ngoại và hai tập đầu của "Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm" là công trình lớn lao đòi hỏi một sự cộng tác của nhiều học giả nghiên cứu phân tích tài liệu.

Ngài là bậc cao tăng đầy đủ mọi đức tính Tư bi hỷ xả, luôn luôn tận tình vì đạo, sống đơn giản, đạm bạc, tuy nghiêm với mình và khoan dung với người nhưng vẫn hài hước trào phúng mà không mất lòng ai.

Tự Viện Phật Tổ là một ngôi chùa tôn, chật hẹp, tối tăm, oi ức mùa hè, ẩm thấp mùa đông, nằm giữa một khuôn viên "chung cư Bàn Cờ". Bao nhiêu thù lao dạy học gom với tịnh tài thí chủ, thay vì xây cất chùa cao cổng rộng ngài chuyển sang mục phiên dịch và ấn tống kinh sách cho nên luôn luôn túng thiếu. Mãi cho đến giờ lâm chung, đệ tử mới biết ngài mặc quần vá tại xứ Hao Kỳ.

Vào lúc 10:40 ngày 18 tháng 7 năm 1995 ngài viên tịch tại bệnh viện sau một thời gian điều trị ngắn vì chứng viêm gan đối với một cơ thể từ lâu suy nhược vi quá chăm lo Phât sự.

Mười lăm năm cuối cùng ngắn ngủi sống với kinh Hoa Nghiêm tại Tự Viện Phật Tổ chính lại là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời tại thế độ sanh của một bậc đồng chơn nhập đạo.

Đối với một bậc cao tăng tận tình vì đạo cho đến hơi thở cuối cùng, chúng con không có đủ tư cách cùng với khả năng để diễn đạt tư tưởng làm sao cho xứng đáng với tấm gương cao quý của một bậc Bồ Tát, nên chúng con chỉ biết cúi đầu lạy ngài tiếp tục tế độ cho chúng con, hàng hiếu tử, nghiệp dày phước mỏng của ngài ở Tự Viện Phật Tổ.

1/http://niemphatthanhphat.blogspot.com
2/ http://nammoadidaphat.blogspot.com
3/ http://namoamitabhabuddhatheky21.blogspot.com

4 Vị Sư 4 Kỷ Lục Phật Giáo: Uyên Bác, Công Trình Lớn...

Bản tin trên báo Lao Động hôm 20-1-2007 đã loan báo về 4 kỷ lục Phật Giáo ở quê nhà, và 4 kỷ lục này là 4 vị sư nổi tiếng.

Bản tin báo này có nhan đề “Công bố 4 kỷ lục Phật giáo” viết như sau:

“Đó là những nhân vật nổi tiếng: Hoà thượng Thích Minh Châu - người dịch kinh điển Pali nhiều nhất VN, hoà thượng Thích Trí Tịnh - người dịch kinh điển Đại thừa nhiều nhất VN, GS-TS Lê Mạnh Thát - người viết lịch sử Phật giáo nhiều nhất VN và bộ tự điển Phật học lớn nhất VN - bộ tự điển Phật học Huệ Quang do hoà thượng Thích Minh Cảnh làm chủ biên.

* Hoà thượng Thích Minh Châu dịch các bộ kinh như: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng chi bộ kinh, Tiểu bộ kinh. Tổng số đã dịch là 17.251 trang. Ngoài ra, hoà thượng còn viết và dịch nhiều tác phẩm Phật học khác như: Phật pháp, Đường về xứ Phật, Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật, Đường lên trời, Trước sự nô lệ của con người, Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa, Some teachings of Lord Buddha on Peace Harmony and Human Dignity (Các lời dạy của Đức Phật về hoà bình, hoà hợp và nhân phẩm con người)...

* Hoà thượng Thích Trí Tịnh hiện là Phó pháp chủ kiêm Giám luật Hội đồng Chứng minh, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo VN, Trưởng ban Tăng sự T.Ư Giáo hội Phật giáo VN, Viện chủ chùa Vạn Đức, quận Thủ Đức, TPHCM, Viện chủ chùa Vạn Linh, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Các tác phẩm của hoà thượng bao gồm: Kinh Pháp Hoa (8 quyển); Kinh Hoa Nghiêm (8 tập); Kinh Đại Bát Niết Bàn (2 tập); Kinh Đại Bát Nhã (3 tập); Kinh Đại Bảo Tích (12 tập); Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Kinh Tam Bảo, Luật Tỳ Kheo Giới Bản, Luật Bồ Tát Giới Bản...

* GS-TS Lê Mạnh Thát biết khoảng 15 ngoại ngữ...Thầy Thát viết sử nhà Phật với hơn 30 cuốn sách. Công trình nghiên cứu của GS-TS Lê Mạnh Thát về lịch sử và văn học Phật giáo VN gồm 26 tác phẩm dày 18.322 trang, 4 tác phẩm về các đề tài Phật học 1.436 trang.

* Hoà thượng Thích Minh Cảnh làm chủ biên ban biên dịch Phật Quang đại từ điển vào khoảng đầu năm 1991. Đến giữa năm 2006, bộ từ điển Phật học Huệ Quang được hoàn thành, gồm 7 tập, 6.244 trang với 23.042 mục từ, hơn 3.000 hình ảnh minh hoạ và một tập sách dẫn. Công trình do 12 người biên soạn trong 14 năm (1991 - 2004). Đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho những ai quan tâm đến Phật giáo và Phật học, cũng như tôn chỉ và học thuyết của Đức Phật.”

http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=4&nid=101262