KINH PHỔ MÔN TIẾNG SANSKRIT
KINH PHO^? MO^N BA?NG 001
KINH PHO^? MO^N BA?NG 002
KINH PHO^? MO^N BA?NG 003
KINH PHO^? MO^N BA?NG 004
KINH PHO^? MO^N BA?NG 005
KINH PHO^? MO^N BA?NG 006
KINH PHO^? MO^N BA?NG 007
KINH PHO^? MO^N BA?NG 008
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn, đốt nhang xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay trước ngực, mật niệm)
TỤNG PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Úm Lam Xóa Ha (ba lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám (ba lần)
(Vị chủ lễ thắp ba cây nhang, quỳ ngay thẳng, cầm nhang ngang trán, niệm bài Cúng Hương)
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ dạo,
Theo tự tánh làm lành.
Cùng pháp giới chúng sanh,
Phật từ bi gia hộ.
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (ba lần, xá ba xá)
BÀI NGUYỆN CHUÔNG
(Nhịp hai tiếng chuông)
Nguyện tiếng chuông lành thông các cõi,
Thiết vi, địa ngục cũng nghe rành.
Nghe rồi thân tịnh, tâm tròn sáng,
Tất cả chúng sanh Phật đạo thành.
(Nhịp một tiếng chuông)
Nghe chuông phiền não tiêu tan,
Bồ đề tâm trí mở toan huệ mầu.
Lìa xa địa ngục thảm sầu,
Khỏi nơi hầm lửa đặng cầu chân tâm.
Nguyện tu thành Phật chẳng lầm,
Độ trong sanh chúng hết lâm tai nàn.
Án, dà ra đế dạ, ta bà ha (ba lần, nhịp ba tiếng chuông)
BÀI KỆ KHEN PHẬT
Phật là vua pháp tối cao,
Khắp trong ba cõi chẳng sao sánh tày.
Trời người đồng kính đạo Thầy,
Cha lành hết thảy bốn loài chúng sanh.
Nay con quy mạng thực hành,
Ngưỡng mong trừ dứt nghiệp sanh ba đời.
Tỏ ra khen ngợi những lời,
Dầu cho ức kiếp chẳng nơi nào cùng. (Một tiếng chuông)
KỲ NGUYỆN
Nay chư đệ tử chúng đẳng hiệp bổn đạo thập phương Phật tử cung tựu Phật tiền, kính dâng một nén tâm hương, ba nghiệp tinh cần, cúi đầu đảnh lễ. Nguyện y lời Phật dạy, trì tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, quyết theo Phật pháp làm lành, báo đền công ơn hóa độ. Tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, cùng pháp giới chúng sanh, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành viên mãn, mau chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ngưỡng mong Phật trí cao vời, từ bi chứng giám.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (ba tiếng chuông, ba lạy)
BÀI KỆ LỄ PHẬT
Sự lạy Phật vốn không, yên tĩnh,
Đạo cảm giao khó tính, khôn bàn.
Nay con thân ở đạo tràng,
Cũng như kết chặt vào đoàn ngọc châu.
Mười phương Phật hiện bầu linh ảnh,
Có bóng con cùng sánh các ngài.
Từ chân cho chí mặt mày,
Cúi đầu đảnh lễ nguyện rày quy y.
Án, phạ nhật ra học. (ba lần, xá ba xá)
ĐẢNH LỄ
- Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (một tiếng chuông, một lạy)
- Nam mô Ta Bà giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (một tiếng chuông, một lạy)
- Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ tát.(một tiếng chuông, một lạy)
BÀI KỆ SÁM HỐI
Đệ tử chúng con từ vô thỉ,
Gây bao tội ác bởi lầm mê.
Đắm trong sanh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài vô thượng giác;
Biển trần khổ lâu đời luân lạc,
Với sinh linh vô số điêu tàn.
Sống u hoài trong kiếp lầm than,
Con lạc lõng không nhìn phương hướng.
Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng,
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng.
Xin hướng về núp bóng từ quang,
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đường ác trược,
Vì tham, sân, si, mạn gây nên.
Con hôm nay giữ trọn lời nguyền,
Xin sám hối để lòng thanh thoát;
Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt,
Từ bi vô lượng cứu quần sinh.
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình,
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi.
Theo gót ngài vượt qua khổ ải,
Nương thuyền từ vượt bể ái hà.
Nhớ lời ngài, bờ giác không xa,
Hành thập thiện cho đời tươi sáng.
Bỏ việc ác, để đời quang đãng,
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân.
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,
Con nguyện được sống đời rộng rãi.
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh.
Để theo ngài trên bước đường lành,
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ;
Chúng con khổ, nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời.
Phá si mê, trí huệ tuyệt vời,
Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc.
Phật A Di Đà thân kim sắc,
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm.
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Trong hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành.
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin đức Từ bi tiếp độ.
Tội tánh vốn không, do tâm tạo,
Tâm nếu diệt thời tội sạch trong
Tội trong, tâm diệt thảy đều không.
Thế mới thật là chơn sám hối.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát, Ma Ha Tát (ba tiếng chuông, ba lạy)
NAM MO^ DA.I BI HO^.I THUONG PHA^.T BO^` TA'T ( 3 LA^`N)
Chú Đại Bi Tiếng Phạn (Sankrit)
CHU' ĐẠI BI TIẾNG SANSKRIT
1. Namah Ratnatrayaya.2. Namo Arya-3. VaLokitesvaraya.4. Bodhisattvaya
5. Mahasattvaya.6. Mahakaruniakaya.7. Om.8. Sarva Rabhaye.
9. Sudhanadasya.
10.Namo Skrtva i Mom Arya-11.Valokitesvara Ramdhava.12.Namo Narakindi.
13.Herimaha Vadhasame.14.Sarva Atha. Dusubhum. 15.Ajeyam.16.Sarva Sadha.
17.Namo Vaga.18.Mavadudhu. Tadyatha.19.Om. Avaloki.
20.Lokate.21.Karate.22.Ehre. 23.Mahabodhisattva.24.Sarva Sarva.25.Mala Mala
26.Mahe Mahredhayam.27.Kuru Kuru Karmam.28.Dhuru Dhuru Vajayate.
29.Maha Vajayate.
30.Dhara Dhara.31.Dhirini.32.Svaraya. 33.Cala cala.34.Mamavamara.35.Muktele.
36.Ehe Ehe.37.Cinda Cinda.38.Arsam Pracali.39.Vasa Vasam
40.Prasaya.41.Huru Huru Mara.42.Huru Huru Hri.43.Sara Sara.44.Siri Siri.
45.Suru Suru.46.Bodhiya Bodhiya.47.Bodhaya Bodhaya.48.Maitriya.
49.Narakindi.
50.Dharsinina.51.Payamana.52.Svaha.53.Siddhaya.54.Svaha.55.Maha Siddhaya.
56.Svaha.57.Siddhayoge 58.Svaraya.59.Svaha.
60.Narakindi.61.Svaha.62.Maranara.63.Svaha.64.Sirasam Amukhaya.65.Svaha.
66.Sarva Maha Asiddhaya.67.Svaha.68.Cakra Asiddhaya.69.Svaha.
70.Padmakastaya.71.Svaha.72.Narakindi Vagaraya.73.Svaha74.Mavari Samkraya.
75.Svaha.76.Namah Ratnatrayaya.77.Namo Arya-78.Valokites-79.Varaya
80.Svaha
81.Om. Siddhyantu.82.Mantra83.Padaya.84.Svaha.
KỆ KHAI KINH
Pháp mầu vô thượng rất thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát (ba lần)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn
Nước Kế Tân, Sa Môn Phật Đà Ba Ly dịch Hán
HT Thích Trí Tịnh dịch Việt
1.- Lúc bấy giờ Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà Bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm Bồ Tát?"
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sinh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước qủi La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến có một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các người đó đều được thoát khỏi nạn qủy La Sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
2.- Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy, của người cầm liền gãy khúc, người ấy được thoát khỏi.
Nếu qủi Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi Tam Thiên Đại Thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các qủy dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống chi lại làm hại được.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam Thiên Đại Thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các Thiện nam Tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem Pháp Vô Úy thí cho chúng sinh, các ông nếu xưng danh hiệu Ngài thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này."
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát", vì xưng danh hiệu Bồ Tát, nên được thoát khỏi.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức uy thần cao lớn như thế.
3.- Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ly dục.
Nếu có người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa lòng giận.
Nếu có người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa ngu si.
Vô Tận Ý! Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có những sức uy thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sinh con trai phúc đức trí tuệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sinh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phúc đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý ! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế.
Nếu có chúng sinh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phúc đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vô Tận ý! "Nếu có người thụ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dàng đồ ăn uống, y phục, giường năm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử thiện nữ nhân đó có nhiều chăng?"
Vô Tận Ý Thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều". Phật nói: "Nếu lại có người thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dàng, thời phúc của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận".
Vô Tận Ý! "Thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên phúc đức lợi ích như thế".
5. Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?"
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử. Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói Pháp.
Người đáng dùng thân Duyên Giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tiểu Vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trưởng Giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Cư Sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tể Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng Thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắt, Ưu Bà di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ, của trưởng giả, Cư sĩ, Tể Quan, Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu la, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhân cùng Phi nhân, được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo di trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là Vị Thí Vô Úy".
Vô Tận Ý! Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Con nay phải cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát." Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lượng vàng đem trao cho Quán Thế Âm Bồ Tát mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc nầy".
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhân và Phi Nhân, v.v..mà nhận chuỗi ngọc đó".
Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, Nhân và Phi nhân v.v.. mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà.
Lúc đó Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
7. - "Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhân duyên gì
Tên là Quán Thế Âm?"
Đấng đầy đủ tướng tốt,
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sinh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biết thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn qủi, cá, rồng.
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm được.
Hoặc ở chót Tu Di
Bị người xô rớt xuống,
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhật treo không.
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sinh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gẫy thành đoạn.
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã được giải thoát.
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở hại nơi bổn nhân.
Hoặc gặp La Sát dữ
Rồng độc, các loài qủi
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúng sinh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian.
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ:
Địa ngục qủi súc sanh
Sinh già bịnh chết khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chân quán, thanh tịnh quán
Trí tuệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Tuệ nhật phá các tối.
Hay phục tại khói lửa
Khắp soi sáng thế gian
Lòng bi răn như sấm
Ý từ diệu đường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ phiền lửa não.
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quan trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sinh nghi
Quán Âm bực tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sinh
Biển phúc lớn không lường
Cho nên phải đỉnh lễ.
8. - Bấy giờ, Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít.
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,
Quán Thế Âm Bồ tát, Phổ Môn Phẩm (ba tiếng chuông)
CHƠN NGÔN VIẾT
Án đa rị, đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (ba lần)
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN
Úm, Ma Ni Bát Mi Hồng (108 lần)
PHỔ MÔN TÁN
Phổ Môn thị hiện,
Cứu khổ tầm thanh.
Từ bi thuyết pháp,
Độ khắp mê tình.
Theo lời khẩn nguyện,
Cảm ứng tùy hình.
Tám nàn tiêu diệt
Bổn biển an ninh.
MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN
Nam mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện.
Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai, thường cư Nam Hải nguyện.
Nam mô trụ Ta bà, U minh giới, Quán Âm Như Lai, tầm thanh cứu khổ nguyện.
Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.
Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện.
Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện.
Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện.
Nam mô vọng Nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện.
Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện.
Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện.
Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện.
Nam mô đoan nghiêm thân vô tỷ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện.
(ba tiếng chuông, ba lạy)
QUÁN ÂM TÁN
Viên Thông hiệu quý,
Đại sĩ Quán Âm.
Mười hai nguyện lớn,
Quảng đại cao thâm.
Vào nơi khổ hải,
Độ khỏi mê tân.
Tầm thanh cứu khổ,
Chốn chốn hiện thân.
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát. (ba lần, ba tiếng chuông)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH [
BA`I CA VO.NG CO^? TIENG ANH
http://www.mediafire.com/?mtwnmyf3ugg
MUỐN COI CHỮ TO RA, THÌ BẤM VÀO TẤM HÌNH CÓ CHỮ PHẠN THÌ CHỮ SẼ TO RA
BA'T NHA~ TA^M KINH TIENG SANSKRIT
http://www.mediafire.com/?ddtqi2mxozn
Bản tiếng Phạn
[sửa] Chữ Devanāgarī
prajñāpāramita-hṛdayam sūtra
oṃ namo bhagavatyai ārya prajñāpāramitāyai!
ārya-avalokiteśvaro bodhisattvo gambhīrāṃ
prajñāpāramitā caryāṃ caramāṇo vyavalokayati sma:
panca-skandhās tāṃś ca svābhava śūnyān paśyati sma.
iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā śūnyataiva rūpaṃ,
rūpān na pṛthak śūnyatā śunyatāyā na pṛthag rūpaṃ,
yad rūpaṃ sā śūnyatā ya śūnyatā tad rūpaṃ;
evam eva vedanā saṃjñā saṃskāra vijñānaṃ.
iha śāriputra sarva-dharmāḥ śūnyatā-lakṣaṇā,
anutpannā aniruddhā, amalā avimalā, anūnā aparipūrṇāḥ.
tasmāc chāriputra śūnyatayāṃ
na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam.
na cakṣuḥ-śrotra-ghrāna-jihvā-kāya-manāṃsi.
na rūpa-śabda-gandha-rasa-spraṣṭavaya-dharmāh. Na cakṣūr-dhātur
yāvan na manovijñāna-dhātuḥ.
na-avidyā na-avidyā-kṣayo
yāvan na jarā-maraṇam na jarā-maraṇa-kṣayo.
na duhkha-samudaya-nirodha-margā. Na jñānam, na prāptir na-aprāptiḥ.
tasmāc chāriputra aprāptitvād
bodhisattvasya prajñāpāramitām āśritya
viharatyacittāvaraṇaḥ. cittāvaraṇa-nāstitvād
atrastro viparyāsa-atikrānto niṣṭhā-nirvāṇa-prāptaḥ.
tryadhva-vyavasthitāḥ sarva-buddhāḥ prajñāpāramitām
āśrityā-anuttarāṃ samyaksambodhim abhisambuddhāḥ.
tasmāj jñātavyam:
prajñāpāramitā mahā-mantro mahā-vidyā mantro
"nuttara-mantro" samasama-mantraḥ,
sarva duḥkha praśamanaḥ, satyam amithyatāt.
prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ. tadyathā:
gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā
iti prajñāpāramitā-hṛdayam samāptam.
http://daitangkinhvietnam.com/phat-giao-va-doi-song/127-video-phat-giao/1495-bat-nha-tam-kinh.html
]
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH. QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT
Maha Prajnaparamita hrdaya Sutra. The Bodhisattva Avolokite'svara, while engaged in the practice of profound Prajnaparamita.
NHÃ BA LA MẬT ĐẠ. THỜI CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG ĐỘ NHỨT THIẾT KHỔ
Perceived that the five aggregates are empty of " Self-existence". Thus he overcame all suffering and troubles.
A'CH.
XÁ LỢI TỬ, SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG
" O 'Sariputra, Form is not different from Emptiness, and Emptiness is not different from Form. Form is Emptiness and Emptiness is Form,
TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC DIỆC PHỤC NHƯ THI.
the same can be said of feelings, conceptions, actions, and conciousnesses.
XÁ LỢI TỬ, THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH, BẤT DIỆT, BẤT CẤU, BẤT TỊNH,
O 'Sariputra, the characteristics of the emptiness of all Dharmas are that it is not arising, not ceasing, not defiled, not immaculate,
BẤT TĂNG, BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC,
not increasing, not decreasing. For these reasons, in emptiness there are no Form, no feelings, no conceptions, no actions, no conciousnesses;
VÔ NHÃN, NHĨ, TỸ, THIỆT, THÂN Ý, VÔ SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ, SÚC, PHÁP, VÔ NHÃN
no eyes, ear, tongue, body, or mind; no form, sound, odour, taste, touch or mind-object;
GIỚI, NẢI CHÍ VÔ Ý THƯ'C GIỚI, VÔ VÔ MINH DIỆT, VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHI' VÔ
no eye-elements until we come to no elements of conciousnesses; no ignorance and no extinction of ignorance;
LÃO TỬ, DIỆT VÔ LÃO TỬ TẬN, VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. VÔ TRÍ, DIỆC VÔ ĐẮC.
no old age and death, and no extinction of old age and death, no truth of suffering, no truth of the cause of suffering, of the cessation of sufferings or of the path. There is no knowledge and no attainment whatsoever.
DĨ VÔ HỮU ĐẮC CỐ, BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI
By reason of non-attainment, the Bodhisattva dwelling in Prajnaparamita has no obstacles in his mind. Because there is no obstacles in his mind,
NGẠI; VÔ QUÁI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ, VIỄN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG CỨU
he has no fear, and going far beyond all perverted vews, all confusions and imaginations, reaches the Ultimate Nirvana.
CÁNH NIẾT BA`N.
TAM THẾ CHƯ PHẬT Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, CỐ ĐẮC A NẬU ĐA LA TAM MIỆU
All the Buddhas of the past, present and future, by relying on the Prajnaparamita, attain the Supreme Enlightenment.
TAM BỒ ĐỆ`.
CỐ TRI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, THỊ ĐẠI THẦN CHÚ, THỊ ĐẠI MINH CHÚ, THỊ VÔ THƯỢNG, THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ, NĂNG TRỪ NHỨT THIẾT KHỔ, CHƠN THIỆT BẤT HƯ.
Therefore, one should know that the Prajnaparamita is the great incantation, the incantation of great wisdom, the excelled incantation, the equal of the unequaled incantation. that is capable of allaying all sufferings, true because devoid of falsehood.
CỐ THUYẾT BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CHÚ, TỨC THUYẾT, CHÚ VIẾT:
This is the incantation proclaimed in the Prajnaparamita; the incantation which is proclaimed as follows:
YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TA'T BÀ HA.
" GATE GATE PARAGATE PARASAMGATE, BODHI 'SVAHA."
VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ.
Namo Amitabhaya
Tathagataya
tadyatha
Amrito--dbhave
Amrita--siddhambhave
Amrtia--vikrante
Amrtia--vikranta--gamine
gagana kirta--kare
Svaha
NAM MÔ A DI ĐA BÀ GIẠ, ĐA THA GIÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT GIẠ THA, A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, GIÀ DI NỊ, GIÀ GIÀ NA CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
( TỤNG BÀI NÀY 3 LẦN )
ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG , His between-eyebrow hair is soft white ( BA.CH HA`O) a white soft wisp of hair in the center of the brow
ÁI HÀ THIÊN XÍCH LÃNG
Love is full of worry and suffering
KHỔ HẢI VẠN TRÙNG BA
Pain and suffering will become the sea
DỤC THOÁT LUÂN HỒI KHỔ
To get rid of the cycle of birth and death.
TẢO CẤP NIỆM DI ĐÀ
To quickly recite the name of Amitabha Buddha.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT
; ( phải rán niệm Phật cho nhiều [ IN SANSKRIT NAMO AMITĀBHĀYA BUDDHĀYA ; Amitābha or Amida (阿彌陀佛 Chinese. Āmítuó fó ; Amithabha Buddha (아미타불; Amita-bul in Korean); 阿弥陀如来 Japanese. Amida Nyorai (=Amida Tathagata; Sanskrit: अमिताभ Amitābha, Amitāyus ; mantra of Amitābha is ॐ अमिताभ ह्रीः (Devanagari: oṃ amitābha hrīḥ)
Chinese: 阿彌陀佛(T) / 阿弥陀佛(S) Pinyin: Ēmítuó Fó, Āmítuó Fó
Wade-Giles: A-mi-t’uo Fo
Japanese: 阿弥陀如来 Amida Nyorai
Tibetan: Amitābha name.NAM MO A DI DA` PHAT TIENG TA^Y TA.NG.
od dpag med
Mongolian: Цаглашгүй гэрэлт
Korean: 아미타불 Amit'a Bul
Vietnamese: A-di-đà Phật; http://en.wikipedia.org/wiki/Amit%C4%81bha ) ; Buddha Amitabha Song [ http://www.mediafire.com/?wc5rzimymun ] [ http://www.mediafire.com/file/wc5rzimymun/THIEN%20MY%20DA%5ENG%20HUONG%20CU%27NG%20PHAT.MP3 ][ http://www.mediafire.com/?ywyzadzdiwi ] [ THIEN MY DA^NG HU*O*NG CU'NG PHA^.T
]
SÁM BÀI THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CỦA NGÀI PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT
First, Pay homage and respect to all Buddhas.
NHỊ GIẢ XƯNG TÁN NHƯ LAI
Second, Praise the Thus Come Ones.
TAM GIẢ QUẢNG TU CÚNG DƯỜNG
Third, Make abundant offerings.
TỨ GIẢ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG
Fourth, Repent misdeeds and evil karma.
NGŨ GIẢ TÙY HỶ CÔNG ĐỨC
Fifth, Rejoice at others' merit and virtues.
LỤC GIẢ THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Sixth, Request the Buddhas to turn the Dharma wheel.
THẤT GIẢ THỈNH PHẬT TRỤ THẾ
Seventh, Request the Buddhas to remain in the world.
BÁT GIẢ THƯỜNG TÙY PHẬT HỌC
Eight, Follow the teachings of the Buddhas at all times.
CỬU GIẢ HẰNG THUẬN CHÚNG SANH
Ninth, Accommodate and benefit all living beings.
THẬP GIẢ PHỔ GIAI HỒI HƯỚNG
Tenth, Transfer all merits and virtues universally.
THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CHỮ HỚN
[ ] 一 者禮敬諸佛。二者稱讚如來。三者廣修供養。四者懺悔業障。五者隨喜功德。六者請轉法輪。七者請佛住世。八者常隨佛學。九者恒順眾生。十者普皆迴向
PHỤC NGUYỆN
TAM BẢO CHỨNG MINH, OAI THẦN HỘ NIỆM, BỒ TÁT, THINH VĂN, PHẠM VƯƠNG, ĐẾ THÍCH, TỨ THIÊN VƯƠNG, CHÚNG THIÊN LONG, BÁT BỘ HỘ PHÁP THẦN VƯƠNG, NHỨT THIẾT THIỆN THẦN, QUANG GIÁNG ĐẠO TRÀNG CHỨNG MINH CÔNG ĐỨC.PHỤC NGUYỆN, PHONG ĐIỀU VŨ THUẬN, QUỐC THỚI DÂN AN, THIÊN HẠ THÁI BI`NH, CHƯ TAI TIÊU DIÊT.
PHỔ NGUYỆN, HIỆN TIỀN TỨ CHÚNG, PHƯỚC HUỆ SONG TU, MỘT HẬU VÃNG SANH LẠC QUỘ'C.
PHỔ NGUYỆN, ÂM SIÊU DƯƠNG THỚI, HÃI YẾN HÀ THANH, PHÁP GIỚI CHÚNG SANH, TÌNH DỮ VÔ TÌNH TỀ THÀNH PHẬT ĐAO.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
TAM TỰ QUY Y [ ] [ Pañca Sīla. 5 GIOI CA^'M TIENG PHA.N
The Five Precepts
pañca-sila
These basic training rules are observed by all practicing lay Buddhists. The precepts are often recited after reciting the formula for taking refuge in the Buddha, Dhamma, and Sangha.
The Five Precepts:
1. Panatipata veramani sikkhapadam samadiyami
I undertake the precept to refrain from destroying living creatures.
2. Adinnadana veramani sikkhapadam samadiyami
I undertake the precept to refrain from taking that which is not given.
3. Kamesu micchacara veramani sikkhapadam samadiyami
I undertake the precept to refrain from sexual misconduct.
4. Musavada veramani sikkhapadam samadiyami
I undertake the precept to refrain from incorrect speech.
5. Suramerayamajja pamadatthana veramani sikkhapadam samadiyami
I undertake the precept to refrain from intoxicating drinks and drugs which lead to carelessness.
http://www.accesstoinsight.org/ptf/dhamma/sila/pancasila.html
]
To the Buddha I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THỂ GIẢI ĐẠI ĐẠO
to have a complete understanding of the way,
PHÁT VÔ THƯỢNG TÂM.
Bringing for the state of Ultimate Enlightenment. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
TỰ QUY Y PHÁP
To the Dharma I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THÂM NHẬP KINH TẠNG
to penetrate deeply the Buddhist Canons,
TRÍ HUỆ NHƯ HẢI
the obtained wisdom is great as the ocean. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
TỰ QUY Y TĂNG
To the Sangha I myself take refuge,
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
Wishing for all sentient beings,
THỐNG LÝ ĐẠI CHÚNG
to attain complete spiritual powers and virtues,
NHỨT THIẾT VÔ NGẠI
Without any any force impeding this progress. ( prostrate once, lạy 1 lạy)
( NHƯ VẬY LÀ ĐÃ XONG PHẦN NGHI THỨC TỤNG KINH. TẠI SAO CHÚNG TÔI LẠI POST PHẦN NGHI THỨC TỤNG NIỆM KINH NẠ`Y. BỞI VÌ CHÚNG TÔI HY VỌNG RẰNG, PHẦN NGHI THỨC TRÌ TỤNG KINH NÀY SẼ GIÚP QUÝ PHẬT TỬ LẬP GIA ĐÌNH NƠI XỨ LẠ QUÊ NGƯỜI, ĐỂ CÓ THỂ NHỚ LẠI KỶ NIỆM THỜI THƠ ẤU ĐÃ TỪNG TỤNG KINH NƠI MỘT NGÔI CHÙA QUÊ HAY NƠI THÀNH THỊ , ĐÃ TỪNG SỐNG TRONG MÁI ẤM GIA ĐÌNH VÀ ĐÀN EM THƠ DẠI, VÀ CÙNG ĐỂ GỢI NHỚ LẠI TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, YÊU DÂN TỘC VIỆT NAM HIỀN HÒA NHÂN HẬU)