Tuesday, April 23, 2013
Tiểu sử Hòa Thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963)
Ý nghĩa Đại Giới Đàn VĨNH TRÀNG
Đức Thế Tôn ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là “Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”. Cho nên suốt 49 năm thuyết pháp, đức Thích Ca Như Lai duy chỉ bày cho chúng sanh biết làm thế nào để giác ngộ Phật tánh nơi tâm mình. Nhưng muốn giáo pháp trường tồn, phải lấy giới luật làm Thầy và có người thừa kế : “Tam Thế Chư Phật dĩ giới luật vi sư” (Ba đời chư Phật đều lấy giới luật làm thầy) và “Tỳ ni tạng trụ Phật Pháp diệc trụ, Tỳ ni tạng diệt Phật Pháp diệc diệt” (Giới luật còn thì Phật pháp còn, giới luật mất thì Phật pháp cũng mất).
Thật vậy! Sau khi thành tựu đạo quả Bồ đề dưới cội cây Tất-bát-la, đức Thế Tôn chuyển pháp luân lần đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển cho năm anh em Kiều Trần Như với bài pháp Tứ Diệu Đế. Từ đó, Tam Bảo được hình thành. Ánh sáng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi của đức Phật lan tỏa khắp muôn nơi, người quy hướng về Ngài xin xuất gia càng thêm đông, và dần dần tăng đoàn lớn mạnh.
Trong suốt mười hai năm đầu, đại chúng tỳ kheo hoàn toàn thanh tịnh, tất cả mọi sinh hoạt đều nằm trong khuôn khổ của thiền định và tỉnh giác, người đắc Thánh quả nhiều, chưa có những điều phi pháp xảy ra. Nhưng sau đó, Tăng đoàn lớn mạnh, xen lẫn trong đại chúng thanh tịnh có những người làm điều phi pháp, phá vỡ sự thanh tịnh và hòa hợp, làm cản trở sự tu tập giải thoát. Chính vì thế, để ổn định Tăng đoàn, Đức Phật đã chế định ra giới luật theo nguyên tắc “tùy phạm tùy chế”, phạm tới đâu chế tới đó, tùy bệnh bào chế thuốc trị liệu, tạo nên kỷ luật cho đời sống xuất gia.
Những điều giới mà Đức Phật chế ra trong suốt một đời được các vị đệ tử của Ngài gìn giữ, truyền thừa và kết tập lại thành một hệ thống gọi là Luật Tạng. Năm giới của cư sĩ tại gia, mười giới của Sa di và Sa di ni, 250 giới của tỳ kheo, 348 giới của Tỳ kheo ni, 10 giới trọng, 48 giới khinh của Bồ tát giới… cũng được trích ra từ đó.
Chúng đệ tử Phật, những trang Thích tử Như Lai, bậc xuất trần thượng sĩ, tự nguyện giữ gìn mạng mạch Phật Pháp để lưu truyền nơi thế gian, lãnh trách nhiệm “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, từ đời này sang đời khác đã không ngừng nói lên sự chân thật, sự tốt đẹp của cuộc đời.
Cận đại lịch sử hơn 300 năm trước, bậc Thạch trụ Tòng Lâm, Hương Hải Thiền sư đặt chân trên dãi đất hẹp xứ đàng trong và thuận gió xuôi buồm, vượt trùng dương ra đàng ngoài, khôi phục dòng thiền Trúc Lâm đất Bắc, liên tục mở đàn thí giới, thắp sáng ngọn Tâm đăng Phật Tổ. Phương Nam đàng trong các chúa Nguyễn theo bước chân các bậc minh quân, thánh triết tiền nhân, chủ trương : “Quốc vương đại thần duy trì Phật pháp”. Vào ngày mồng 01 tháng 04 năm Ất Hợi (1695) Quốc Chúa Bồ Tát Nguyễn Phúc Chu làm đại thí chủ, Hộ giới Già Lam, tổ chức Đại Giới Đàn quy mô, lập tam Đàn cụ túc truyền giới cho 1.400 (một nghìn bốn trăm) giới tử, Đàn Sa Di, Tỳ Kheo, đàn thứ ba truyền giới Bồ tát cho Công hầu, Khanh tướng, Tông tộc Chúa Nguyễn. Quốc Chúa cũng thọ giới Bồ tát một đàn riêng biệt, duy trì mạng mạch Phật pháp.
Vùng đất mới Sa Giang đầy phù sa, xứ hiền hòa, sông nước hữu tình, đầy hoa thơm, cây lành trái ngọt, mở đầu dân cư đông đúc, làm ăn mua bán tấp nập nơi giao thương Đông Khẩu đạo (Sa Đéc), những sứ giả Như Lai, theo đoàn người đi mở đất, Thiền sư Tịnh Độ dựng đạo tràng Đức Long Cổ Tự năm 1700, Lê Thiền Sư khai sơn Phước Lâm Cổ Tự năm 1720. . . từ đó liên tục mở các đàn truyền giới và Cơ sở Tự viện càng nhiều, truyền thừa Gia phong thiền Lâm Tế từ đời kế tục mãi cho đến nay. Sa Đéc còn nổi tiếng bởi nhân gian truyền tụng : “Sa Đéc là đất Phật”.
Khởi nguyên dân tộc miền Nam, các Chúa Nguyễn và Quốc chúa Bồ tát Nguyễn Phúc Chu cùng chư tôn đức Tăng già, đem ánh đạo vàng Từ bi Trí tuệ phổ hoá nhân gian, ứng dụng thực tiễn mọi phương tiện thiện xảo, hiệu quả trong việc giáo hoá quần chúng thành công chân thiện mỹ, góp phần Tốt Đạo Đẹp Đời - Phụng Đạo Yêu Nước trên tinh thần: “QUỐC VƯƠNG ĐẠI THẦN DUY TRÌ PHẬT PHÁP - HỘ QUỐC AN DÂN”. Trên non cao tận trời xanh, dưới biển cả mênh mông, đất rộng thênh thang, nơi nào có linh khí của đất trời, nơi đó có cuộc sống an nhiên tự tại của các Ngài.
Cho nên người đệ tử Phật cần phải tôn nghiêm giới luật như là vị đạo sư của mình để ứng dụng xây dựng Đạo pháp Dân tộc.
Cơ sở tự viện nào có nề nếp thanh quy nghiêm ngặt, đó là môi trường tốt để đào tạo Tăng tài cho Đạo Pháp và dân tộc. Đạo Phật có tồn tại và phát triển hay không, chính là nhờ những thế hệ Tăng già phúc trí trang nghiêm, Tài Đức song toàn. Tài năng nhờ hiểu sâu Phật Pháp, Đức hạnh nhờ giữ giới tinh chuyên. Có Tài mà không có Đức thì chưa phải là người xuất gia đệ tử Phật chân chính. Cho nên, khẳng định rằng : “Giới luật chính là thọ mạng của Phật Pháp vậy”.
Sau khi thống nhất đất nước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập năm 1981 đến nay, các tỉnh thành trong cả nước liên tục tổ chức các giới đàn truyền giới cho Tăng Ni và Phật Tử tại gia, với trách nhiệm là: “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, thực hiện tính kế thừa tre tàn măng mọc, nhằm duy trì mạng mạch giáo pháp của Như Lai.
Các Tăng Ni Phật Tử sau khi thọ nhận giới pháp, trang nghiêm giới thể do thập sư trao truyền, một mặt lo tu tập bản thân để nâng cao đức hạnh, mặt khác thể hiện công hạnh lợi tha là hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh (hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi sự nghiệp).
Với ý nghĩa to lớn ấy, Ban Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Tỉnh Đồng Tháp thể theo nguyện vọng của Tăng Ni và Phật Tử tại tỉnh nhà, đáo lệ tổ chức Đại Giới Đàn Vĩnh Tràng - Thời gian: 04 ngày, từ ngày 18 đến ngày 21/04/2013 (nhằm ngày 09 đến 12 tháng 03 năm Quý Tỵ).
- Địa điểm:
* Giới đàn Tăng: Phước Hưng Cổ Tự, phường 1, TX. Sa Đéc.
* Giới đàn Ni: chùa Phước Huệ, Phường 1, TX. Sa Đéc.
Đại Giới Đàn này được mang tên “Giới Đàn VĨNH TRÀNG”, nêu gương bậc Giới đức kiêm ưu, Đạo hạnh khả kính, làm biểu tín cho hàng Thích tử đắc giới, tiếp nối mạng mạch Phật pháp, truyền đăng tục diệm, tiếp ngọn lửa hương Từ bi Trí tuệ của Phật Tổ.
Ban Trị sự Tỉnh Hội Phật giáo Đồng Tháp, Tổ đình Phước Hưng Cổ Tự, Đạo tràng Ni giới Phước Huệ, long trọng tổ chức Đại Giới Đàn Vĩnh Tràng, dùng Hương Tịnh Thủy “Bát Công Đức”, ghi lại hành trạng đại lão Hòa thượng Thích Vĩnh Tràng làm Phương danh, cúi đầu chí thành thắp Giới-Định- Huệ hương, tưởng niệm bậc Cao Tăng Giới Đức Kiêm Ưu, đã cống hiến trọn đời, hiện thân giáo, tiêu biểu Danh Đức sáng ngời cho hậu thế trong sự nghiệp giáo dục đào tạo Tăng Ni, Phật tử tiếp nối, hoằng pháp độ sinh :
Tiểu sử Hòa Thượng Thích Vĩnh Tràng (1881-1963)
Hòa thượng thuộc dòng thiền Lâm Tế chánh tông đời thứ 40, pháp húy Hồng Tỵ, hiệu Vĩnh Tràng, thế danh Trần Văn Tỵ, sinh năm Tân Tỵ (1881) tại Lai Vung, Phủ Tân Thành, An Giang (nay huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Thân sinh Ngài là cụ ông Trần Văn Bè, vốn sinh trưởng trong gia đình trung lưu kính tin Tam Bảo.
Năm Giáp Thìn (1904) sau khi thông thạo nghề thợ Kim hoàn, sự nghiệp thành đạt, cụ thân sinh quyết định lo bề gia thất cho Ngài. Nhưng do duyên Bồ đề đã ươm mầm, vườn hoa Bát nhã đơm bông, chí thoát trần thúc giục, Ngài khước từ việc hôn nhân và xin phép song thân cho Ngài theo lý tưởng Phật đà tìm đường giải thoát… Bái tạ từ giã Phụ thân, hiền mẫu, dịp lễ tưởng niệm ngày Tổ sư Minh Thông hiệu Hải Huệ viên tịch lần thứ nhất, vào ngày mồng 4 tháng 8 năm này, Ngài tìm đến Bửu Lâm Cổ Tự (Chùa Tổ) rạch Cái Bèo, làng Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, đảnh lễ đại lão Hòa thượng Như Liễn hiệu Phổ Lý, xin thế phát xuất gia làm Thích tử và Ngài được Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp danh Hồng Tỵ hiệu Vĩnh Tràng. (Đại lão Hòa thượng Phổ Lý là một trong những vị danh Tăng đầu thế kỷ 20, sau khi buổi hiệu triệu canh tân Phật giáo do Tổ Khánh Hòa, Huệ Quang. . . Ngài vô cùng cảm kích, dùng tiếng khóc dấy động phong trào chấn hưng Phật giáo toàn quốc).
Do được hầu cận chư vị cao Tăng thạc đức, được chư tôn giáo phẩm tiền bối un đúc, nên sự học tu của Ngài càng thêm tinh tấn và hiệu nghiệm.
Năm Ất Tỵ (1905) sau khi lễ Đại tường mãn tang Sư tổ Minh Thông hiệu Hải Huệ, thì Ngài được thọ giới Sa di tại Tổ đình Khải Phước Nguyên, Lấp Vò, Thiền sư Như Khả hiệu Chân Truyền đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
Năm Tân Hợi (1912) Ngài thọ Cụ túc giới tại giới đàn Minh Thông, Tổ đình Khải Phước Nguyên, Lấp Vò, Thiền sư Như Khả hiệu Chân Truyền đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
Sau đó để tiếp tục sự nghiệp Truyền đăng tục diệm, báo Phật thâm ân, hoằng truyền chánh pháp, hóa độ chúng sanh, Ngài được Hòa thượng Bổn sư bổ xứ về Lai Vung Trụ trì ngôi Già lam Hội Phước ven sông Hậu và cố vấn Trụ trì các Tự viện lân cận như Chùa Phương Trì, Chùa Long Phước. . .
Mùa Thu năm Đinh Sửu (1937) các vị bô lão Hội đồng làng Tân Vĩnh Hòa, đại diện Phật tử Sa Đéc cung thỉnh Ngài về Trụ trì ngôi Phước Hưng Cổ Tự.
Mùa Xuân năm Mậu Dần (1938) Ngài phát nguyện bách bộ hành hương ra tận đất Bắc, chiêm bái Danh lam Thánh tích. Khi về Ngài đến Tổ đình Thiên Phúc Tự (chùa Thầy chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội), chiêm bái Thánh tăng, chia sẻ Phật sự với vị Trụ trì và thỉnh một chiếc mõ bằng gỗ quý, nặng khoảng 15 kg, đường kính bề ngang 1,4 m, bề dọc 70 cm. Không quản đường xa vạn dặm, vượt bao vất vả khó khăn, Ngài vừa đội chiếc mõ trên đầu, mỗi bước chân liền niệm Phật. Hành trình bao tháng ngày niệm Phật kinh hành, mang bảo vật pháp khí đất Bắc về tận Đồng bằng sông Cửu Long, cầu nguyện non sông đất nước, Bắc Nam liền một dãi, mãi mãi trường tồn bất diệt. Chiếc mõ được an vị và bảo lưu tại Chánh điện Phước Hưng Cổ tự cho đến nay.
Trải bao năm tháng với tuế nguyệt phong sương, sớm hôm hòa quyện với tiếng mõ, hồi chuông ngân vang cùng kinh vàng, kệ ngọc:
Mõ sớm chuông chiều, gợi ý khách trần trong biển ái;
Câu kinh tiếng kệ, nhắc lòng người tục giữa sông mê.
Năm Kỷ Sửu (1949) giặc Pháp quyết định thiêu hủy ngôi Cổ Tự Phước Hưng với lý do nghi ngờ chùa này là cơ sở nuôi dấu chiến sĩ Cách mạng chống Pháp, nhưng nhờ đức hạnh của Ngài cảm hóa giới quan chức trí thức địa phương cùng quần chúng Phật tử mà ngôi Cổ Tự thoát hỏa nạn, và Danh thắng Phước Hưng được tồn tại.
Năm Nhâm Dần (1962) do tuổi già sức yếu, tự biết không còn trụ thế bao lâu, Ngài kiến nghị Giáo hội bổ xứ người về đãi lao Ngài Trụ trì ngôi Cổ Tự. Trọng Đông năm này, Hòa thượng Thích Thiện Hòa – Trị sự Trưởng Giáo hội Tăng Già Nam Việt ký quyết định bổ nhiệm đồng môn pháp lữ, Hòa thượng Thích Vĩnh Đạt Trụ trì Phước Hưng Cổ Tự và lo hậu sự cho Ngài.
Đầu Xuân năm Quý Mão (1963) nhân dịp lễ kỷ niệm ngày vía đức Bồ tát Quán Thế Âm đản sinh, Ngài tắm gội, mặc áo cà sa, nằm nghiêng bên hữu, thế cát tường, tay phải gối đầu, tay trái xuôi theo hông, miệng Ngài mỉm cười từ biệt đại chúng bằng câu niệm A Di Đà Phật, an nhiên thu thần viên tịch vào giờ Mão ngày 19 tháng 2 âm lịch.
Trụ thế 83 Xuân
Giới lạp 52 Hạ
Trụ trì 52 Đông
Những vị đệ tử xuất gia với Ngài tiêu biểu như các vị :
Hòa thượng Thích Thiện Huệ, hiện Trụ trì Tổ đình Phước Hưng Cổ Tự, Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Tháp, cố Hòa thượng Thích Thiện Phước pháp húy Nhật Thọ, nguyên Trụ trì chùa Phật Học, Cần Thơ, cố Hòa thượng Thích Thiện Long pháp húy Nhật Thạnh, nguyên Trụ trì chùa Phương Trì, cố Hòa thượng Thích Thiện Tồn pháp húy Nhật Dần, nguyên Trụ trì Hội Phước Cổ Tự, Lai Vung, cố Hòa thượng Thích Thiện Thanh pháp húy Nhật Uông, nguyên Trụ trì chùa Long Phước, Long Hậu, Lai Vung . . . Đệ tử tại gia quy y thọ ngũ giới, Thập thiện, Bồ tát giới hàng vạn người.
Lúc trẻ, Ngài vân du khắp danh lam thánh tích đất Bắc, độc bộ hành cước, tham học chư sơn thiền đức vùng thất sơn mầu nhiệm, Châu Đốc.
Đương thời Ngài được sự quý mến của chư tôn đức Tăng già, đặc biệt là đại lão Hòa thượng Luật sư Thích Chánh Quả trụ trì Kim Huê Cổ tự.
Một hôm viên quan Tri huyện Lai Vung, Trần Thượng Tân (1917-1947) đến hỏi ý nghĩa Phật tánh, Ngài trích dẫn Kinh Viên Giác để chia sẻ :
“Tất cả chúng sanh đều đã thành Phật”
- Trong quặng, vàng đã thành sẵn, chỉ do lẫn lộn với đất cát tạp chất, nay luyện bỏ đất cát thì vàng hiện ra. Nếu trong quặng vốn không sẵn có vàng thì dù tinh luyện cách mấy cũng không thể thành vàng.
Cũng vậy; Phật tánh không thể giảm bớt hay gián đoạn, Chân Tâm, Phật tánh vốn sẵn nơi chính mình :
Niệm Phật niệm Tâm, Tâm niệm Phật;
Tham thiền tham Tánh, Tánh tham thiền.
Chúng ta tu hành cũng giống như luyện vàng vậy!
Đối với xã hội, Ngài là bậc mô phạm mẫu mực để tiêu biểu cho một công dân tốt, khiến giới quan chức trí thức địa phương vô cùng kính mến và xin quy y làm đệ tử, thành Hộ pháp phụng sự Tam Bảo.
Từ lúc xuất gia nhập đạo làm Sa môn Thích tử, Ngài lập nguyện tu hạnh đầu đà, nghiêm cẩn trì giới luật, suốt đời không ăn sang mặc đẹp; trong cuộc sống thường nhật Ngài luôn thể hiện Tri túc để trang nghiêm cho phong cách an lạc thanh nhàn, thọ trì đọc tụng Kinh Đại Thừa, ít nói để thanh tịnh tâm niệm Phật, thật xứng danh là bậc “ĐẠO HẠNH KHẢ PHONG”. Hạnh nguyện hiện thân giáo hóa của Ngài hơn vạn lời giáo huấn :
Lên điện báu trong tâm ngời thánh trí;
Nhập thiền môn dưới gót hiện hoa sen.
Sự thị hiện của Ngài là một bài thuyết pháp không lời. Hương thơm đức hạnh của Ngài mãi mãi với thời gian. Hành trạng cuộc đời và sự nghiệp hành hóa của Ngài là ánh quang minh, luôn soi đường dẫn bước cho hậu thế noi theo tu học.
Thích Vân Phong kính soạn