Sunday, December 13, 2009

MƯỜI CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

MƯỜI CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

Image and video hosting by TinyPic


Trong kinh nói: “ Người nào chí tâm niệm Phật, được mười món công đức như sau:

1.- Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.

2.- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.

3.- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.

4.- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.

5.- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.

6.- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán rằng buộc.

7.- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.

8.- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.

9.- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.

10.- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!"





MƯỜI CÔNG ĐỨC LẠY PHẬT

1.- Được sắc thân tốt đẹp.

2.- Nói ra điều chi ai cũng tin dùng.

3.- Không sợ sệt giữa đông người.

4.- Được chư Phật giúp đỡ.

5.- Đầy đủ oai nghi lớn lao.

6.- Mọi người đều nương theo mình.

7.- Chư Thiên cung kính.

8.- Đủ phước đức lớn.

9.- Lúc lâm chung được vãng sanh.

10.- Mau chứng quả Niết Bàn.

(Một lạy còn được công đức như vậy, huống chi lạy Phật nhiều).
http://www.thondida.com/V-CongDucNiemPhat.php
Đức Phật A-di-đà – Công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn.

Đại sư Liên Trì nói:

- Chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà, thù thắng hơn trì chú vãng sinh, cũng hay hơn trì những chú khác, cũng vượt hơn tất cả các công đức khác.

- Thù thắng hơn trì chú vãng sinh là: Trì chú 30 nghìn biến mới thấy được Đức Phật A-di-đà, còn trì danh hiệu Phật thì một ngày một đêm liền thấy Phật.

Bài chú Vãng sinh ghi: Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng chú 37 biến, có thể diệt được tội ngũ nghịch[36]; trì danh hiệu Phật thì chí tâm niệm một tiếng Phật liền diệt được 80 ức kiếp tội nặng trong sinh tử.

- Thù thắng hơn các chú khác nghĩa là: Chuyên trì danh hiệu, tức là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú. Nhờ 10 niệm được vãng sinh, vãng sinh tức không còn thoái chuyển, oai linh chẳng lường được, đó là đại thần chú.

- Nhất tâm không loạn, đoạn vô minh, thấy tự tính, là đại minh chú.

- Chứng Vô sinh nhẫn, trở lại Ta bà, độ hết chúng sinh, là vô đẳng đẳng chú.

- Niệm Phật thù thắng hơn công đức khác, nghĩa là: Lục độ vạn hạnh, vô lượng pháp môn, chuyên trì danh hiệu, gồm thâu hết thảy, vì các pháp không ngoài một tâm.

Nguyện cho đệ tử Tịnh Độ, chuyên giữ Tín Nguyện, luôn được nhất tâm.

Bậc Cổ đức, nhiều vị chuyên tu pháp môn khác, thường chuyển sang tu niệm Phật. Huống gì người chuyên tu niệm Phật, lẽ nào thay đổi những điều mình đã gìn giữ mà bỏ theo pháp môn khác ư!

Nam mô A-di-đà Phật!
2. Yếu quyết niệm Phật là thu nhiếp cả sáu căn.

Đại sư Ấn Quang khai thị: “Thu nhiếp sáu căn là bí quyết của niệm Phật”. Khi niệm Phật cần phải nhiếp tai lắng nghe, từng chữ từng câu rõ ràng, chớ để đi qua phí uổng. Danh hiệu Phật từ tâm sinh, tiếng từ miệng ra, lại vào từ lỗ tai, tiếp nối nhau không gián đoạn. Vừa khởi vọng niệm, liền thu tâm về niệm Phật, nhiếp tai lắng nghe, không cho vọng niệm tiếp nối. Như thế, tất cả tạp niệm dần dần tiêu diệt, công phu tự nhiên thành tựu.

Pháp sư Tịnh Không nêu rõ: Vọng niệm quá nhiều thật phiền não, xưa nay rất khó mà ổn định được một niệm. Căn bệnh lớn của chúng ta là tâm không ổn định, tâm luôn tán loạn, loạn tưởng hồ đồ không thể an định, hễ tưởng bệnh liền thành bệnh, tưởng già liền biến thành già. Mục đích của niệm Phật chính là phải nhiếp phục được những vọng tưởng phiền não này.

Pháp sư còn nhiều lần khuyến khích các bạn đồng tu: Công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong tám mươi bốn nghìn pháp môn tu thì pháp môn niệm Phật thích hợp nhất với căn cơ chúng sinh thời mạt pháp. Pháp môn niệm Phật còn xem “Trì danh hiệu Phật” là thù thắng nhất. Chúng ta cần phải vận dụng tâm “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác, từ bi” để niệm Phật thì một câu danh hiệu Phật này mới có thể tương ưng, mới có thể được uy thần bản nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ, mới là niệm chân thành đúng đắn!

Lại nói: Biết rõ là hiểu lý, là học vấn, buông bỏ mới là công phu chân thật; chỉ cần thật sự chịu buông bỏ; vứt bỏ vọng niệm, chính niệm tự nhiên có mặt. Điều đó Cổ đức gọi là: “Chỉ cầu trừ vọng, cần gì tìm chân”. Nên biết, niệm Phật tức là dùng một chính niệm dừng vô số vọng niệm, dùng một niệm thanh tịnh công phu thay đổi vô số vọng niệm. Nếu thật sự có thể thực hành được niệm chân thành, trong tất cả thời khắc danh hiệu Phật A-di-đà thường ở trong tâm thì tự nhiên quên đi cái Ngã. Vì quên Ngã nên khắp nơi đều được không ngăn ngại. Vì Đức Phật A-di-đà thường ở trong tâm, nên công phu thành tựu, đạt đến sự trong sáng tự tại.

Trong Tâm Thanh Lục của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng đã nêu rõ: “Chí tâm xưng niệm một câu Thánh hiệu A-di-đà này giống như luyện quặng sắt thành vàng; nghĩa là phải đào thải hết tất cả những tạp chất vốn có, loại bỏ sạch toàn bộ tất cả vọng tưởng phiền não. Nếu có thể như thế thì vàng đã luyện thành, không còn là quặng nữa”.
3. Đại sư Ấn Quang truyền pháp Tâm Ấn.
Đôn luân tận phần
Nhàn tà tồn thành
Tín Nguyện niệm Phật
Cầu sinh Tịnh Độ.

“Đôn luân tận phần”, “Đôn” nghĩa là thành tâm hoà thuận. “Luân” chỉ cho đạo đức của con người. “Đôn luân” chính là xử sự chân thành thuận hoà giữa con người với con người. Đại sư khuyên bảo chúng ta: Cần phải dốc lòng thực hành nghĩa vụ và trách nhiệm con người. Trách nhiệm và nghĩa vụ này chính là bổn phận của mỗi người nên làm trọn vẹn. Vậy những cái nào mà bổn phận làm người phải hết lòng? Chính là luân thường, cũng chính là năm mối quan hệ: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Nếu năm mối quan hệ này đều có thể làm tốt thì gia đình mới có thể hạnh phúc; xã hội, quốc gia mới có thể ổn định.

Quan hệ vua tôi: Đây là mối quan hệ khá tốt giữa quan lớn và thuộc hạ, hoặc là mối quan hệ giữa chủ và nhân công. Phải làm sao cho tốt đẹp? Cũng chính là: “Vua sai bảo thần vì lễ, thần phụng sự vua vì trung”. Chủ đối với nhân công phải biết tôn trọng và quan tâm đến họ. Thuộc hạ hoặc nhân công đối với những việc mà cấp trên giao cho, phải trung thành đảm nhiệm, hết lòng làm việc, đó chính là đạo quân thần cư xử với nhau.

Đạo cha con: Người cha nên lấy bản thân làm nguyên tắc, làm tấm gương tốt đẹp cho con cái, quan tâm đến con cái và nghiêm túc dạy bảo chúng, khiến cho nó trở thành người tốt đẹp, người hiền lương, đó mới là lòng yêu thương đúng đắn. Nhờ vậy, phận làm con mới có thể cảm niệm được ân dạy dỗ của cha mẹ, tự nhiên sẽ hiếu kính cha mẹ.

Đạo vợ chồng: Đây là then chốt hạnh phúc của gia đình, cũng là cầu nối ổn định của xã hội. Vợ chồng hoà thuận, gia đình mới có hạnh phúc đáng kể, cũng mới có được một thế hệ kiện toàn ưu tú. Vì vậy, làm người chồng cần phải có trách nhiệm với gia đình, có tình nghĩa với vợ con, có ân nghĩa với cha mẹ, con cái. Người làm vợ cũng cần phải hòa thuận, dịu dàng, giúp chồng dạy con, đóng vai một người vợ hiền, một nàng dâu thảo, một người mẹ tốt.

Đạo anh em: Anh em, chị em giống như chân tay. Nếu như anh chị em yêu thương nhau, quan tâm lẫn nhau, không để cho cha mẹ lo lắng, đó cũng là sự biểu hiện của lòng hiếu thảo trọn vẹn.

Đạo bằng hữu: Cùng bạn bè qua lại phải kết thiện duyên rộng rãi, giảng cầu tín nghĩa, dùng tâm chân thành giao hảo, chắc chắn có thể được tình hữu nghị lâu dài.

Năm mối quan hệ trên chính là căn bản của luân thường. Năm thứ căn bản này là then chốt hiện tại lớn nhất cho hạnh phúc gia đình và ổn định xã hội đất nước.

“Nhàn tà tồn thành”. “Nhàn” nghĩa là ngăn chận, “Tà” chỉ cho sự gian ác. “Nhàn tà” là ngăn ngừa sự gian ác xâm nhập. Ngay trong đời sống thường ngày, cần phải luôn giữ gìn tâm thanh tịnh, tĩnh tọa tư duy chính mình có sai sót gì không, đồng thời ngăn chặn tất cả tà nhiễm.

“Tồn thành” là bảo vệ gìn giữ tâm tính trung thành, tiếp đãi người, xử lý công việc thường ngày phải giữ tâm cung kính chân thành, lâu ngày có thể đạt đến chỗ chân thành ở bên trong hiện ra bên ngoài. Khi bàn giao sự việc cho người, tất nhiên sẽ nhận được sự yêu thương và tôn kính sâu sắc của người khác.

“Tín nguyện niệm Phật, cầu sinh Tịnh Độ”, niềm tin chân thành đúng đắn về Đức Phật A-di-đà, thế thì chỉ cần dùng tâm chân thành, giữ nó để niệm Phật mãi mãi, chắc chắn bạn có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc, thân cận Đức Phật A-di-đà và các bậc thiện tri thức, cùng làm học trò của Đức Phật A-di-đà.

2. Tinh yếu pháp mười niệm.

Xin đem tinh yếu pháp mười niệm của ngài Tịnh Không đã nói, làm thành quy tắc thường lệ cho những người học tông Tịnh Độ, đời nay đời sau tự tu hoặc tu chung.

“Tự tu” chính là phương pháp niệm Phật, mỗi ngày 9 lần, mỗi lần niệm 10 câu danh hiệu Phật. Mỗi sáng thức dậy và trước khi ngủ đều niệm một lần. Ba bữa ăn trong ngày cũng đều niệm một lần. Buổi sáng trước khi bắt đầu làm việc và khi kết thúc công việc đều niệm một lần. Buổi chiều bắt đầu làm việc và khi kết thúc công việc đều niệm một lần, tổng cộng 9 lần. Mỗi lần xưng niệm mười câu bốn chữ hoặc sáu chữ danh hiệu Phật A-di-đà. Đã có thời khóa thường ngày nhất định nên chiếu theo đó mà thực hành.

“Tu chung”, ở những nơi giảng kinh, hội họp, hay chỗ ăn uống v.v… những cuộc họp không có quy tắc, nghi thức cố định, trong khi bắt đầu làm việc chung thì thực hành pháp mười niệm này, cũng tức là theo quy ước đại chúng chắp tay đồng thanh xưng niệm mười câu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Sau đó, tiến hành các hoạt động thích hợp như giảng kinh, hội họp, dùng cơm v.v…

Theo pháp mười niệm tự tu và tu chung này, mỗi pháp có sự lợi ích thù thắng riêng của nó. Thử nêu một vài thí dụ sau đây:

1. Pháp này đơn giản dễ thực hành, dùng thời gian ít mà thu được hiệu quả lớn, quả thật là thiết yếu, có thể kéo dài lâu và có thể mở rộng.

2. Nó là phương pháp hữu hiệu cho việc “Phật hóa gia đình”. Ví dụ: Thực hành nó lúc ăn cơm trong gia đình thì những thành viên cả nhà có người tin, có người không tin đều nhờ nó được nhiếp trì đầy đủ. Hơn nữa có thể ảnh hưởng đến bạn bè làng xóm, phổ cập được lợi ích rộng lớn cho xã hội hiện tại.

3. Vì nó đơn giản dễ thực hành, một ngày 9 lần, từ sáng đến tối, danh hiệu Phật không gián đoạn. Trong sinh hoạt một ngày, liên tục niệm Phật, ngày này sang ngày khác. Nếu có thể thực hành lâu như thế thì tâm tình, khí chất của người thực hành sẽ dần dần thanh tịnh, tín tâm và pháp lạc phát sinh, được phước báo lớn vô cùng.

4. Như có thể tùy thuận vui hòa, xưng niệm mười câu danh hiệu Phật thì sẽ diệt trừ được tạp nhiễm, làm trong sáng tâm niệm, lắng đọng tâm thần, dốc lòng học đạo, những việc làm dễ thành tựu, gặp được những điều lành, nhờ Phật gia hộ v.v… thành tựu được công đức không thể nghĩ bàn.

5. Tự tu và tu chung: Nó sẽ giúp đỡ nhau, dung thông nhau, tư lương hội tụ, không những nắm chắc đường vãng sinh của một người mà đại nghiệp bồ-đề của cộng đồng cũng dễ thành tựu.

6. Pháp này có thể dùng hai tên để gọi:

“Tịnh nghiệp gia hành pháp mười niệm”[37], đây là nói đối với mình có sự tu tập thời khóa cố định, vì pháp môn này có sẵn trong thời khóa tu nên thực hành thêm pháp mười niệm.

“Giản yếu tất sinh thập niệm pháp”[38]. Đa số chỉ cho những người tu pháp môn Tịnh Độ hiện tại và sau này không có thời khóa cố định. Vì xã hội ngày nay luôn thay đổi, bận rộn, vội vàng, nên gây ra nhiều trở ngại khó khăn. Còn pháp môn này dễ hội tụ tư lương, tín-nguyện-hành, dễ đạt đến viên mãn. Hơn nữa nó cũng rất phù hợp với tiêu chuẩn “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm không gián đoạn”.

Do thời gian mỗi lần niệm Phật ngắn ngủi nên dễ nhiếp tâm và không sinh biếng nhác. Họ đem công phu tu hành chín lần niệm Phật phân bố đều, xuyên suốt trong cả ngày thì thân tâm trọn ngày không thể không thành Phật, cũng tức là niệm Phật hóa đời sống trọn ngày, tức là niệm Phật làm thay đổi cuộc sống.

Tóm lại, pháp này đơn giản, nhẹ nhàng, không một chút khó khăn trở ngại. Nếu như pháp môn này được lưu hành rộng rãi thì người tu học pháp môn Tịnh Độ rất may mắn! Chúng sinh đời sau cũng rất may mắn! Chư Phật đều hoan hỷ.

Nam mô A-di-đà Phật.

Năm 1994, ngày chư Phật hoan hỷ, Hội Tu Học Tịnh Độ tại Mỹ, tứ chúng đồng luôn kính khuyến.
II. TU HÀNH

1. Người phụ nữ ở gia đình làm cách nào để tu Bồ-tát đạo trong đời sống hằng ngày.

Hằng ngày làm công việc giống như nhau, nhất định sẽ cảm thấy rất chán, nhất là người phụ nữ chính trong gia đình, dường như mãi mãi không có một ngày rảnh rỗi, vì thế rất nhiều người đều cảm thấy khổ sở. Nếu như có thể thay đổi quan niệm sống thì sẽ thấy rất an vui. Trong quan niệm bình thường, mọi người luôn chấp có “ngã”. Có cái ta đang làm, ta rất khổ nhọc, vì sao ta phải làm thay cho họ? Càng nghĩ thì phiền não càng nhiều. Nếu người muốn học Bồ-tát đạo, phát đại thệ nguyện, phổ độ chúng sinh thì cách nghĩ, cách nhìn của họ sẽ không như thế.

Tu hành Bồ-tát đạo, thứ nhất phải Bố thí Ba-la-mật. Nữ tu Bồ-tát là một người nội trợ phục vụ trong gia đình, chính là tu Bố thí Ba-la-mật.

Bố thí có ba loại: Tài thí, pháp thí, vô úy thí.

Tài thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài chỉ cho tiền bạc ở bên ngoài, cung cấp cho sinh hoạt của mọi người. Nội tài là dùng thể lực trí huệ của mình phục vụ cho mọi người. Người phụ nữ nội trợ trong gia đình có thể ngay trong công việc nhà mà hoàn thành trọn vẹn sáu Ba-la-mật. Bạn sẽ sắp xếp việc nhà gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ, khiến cho cuộc sống của mọi người thoải mái, làm cho láng giềng hâm mộ, đây là Trì giới Ba-la-mật. Trì giới chính là giữ phép tắc. Bạn có thể làm việc với tâm nhẫn nại, không mệt mỏi, không chán nản, tức là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Mỗi ngày còn phải đổi mới, hy vọng ngày mai làm việc tốt hơn ngày hôm nay, chính là Tinh tấn Ba-la-mật. Dù cho, hằng ngày làm rất nhiều công việc nhà nhưng cõi lòng vẫn thanh tịnh, mảy trần không nhiễm, tức là Thiền định Ba-la-mật. Trong tâm thanh tịnh thường sinh trí huệ, pháp hỷ sung mãn, đó là Bát-nhã Ba-la-mật. Thế là đã rõ: Hóa ra sáu Ba-la-mật của Bồ-tát chính là thành tựu viên mãn ở những việc lau ghế, quét nhà, giặt áo, nấu cơm.

Đây chính là học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát đã được Thiện Tài đồng tử biểu đạt trong kinh Hoa Nghiêm.

Bạn làm tốt việc nhà, tức là làm tấm gương cho tất cả những người phụ nữ nội trợ trên thế gian, làm tấm gương cho tất cả những gia đình. Điều này có thể độ láng giềng, mở rộng hơn thì có thể ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia và thế giới, cho đến tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Như thế mới biết nữ nội trợ Bồ-tát ở trong nhà làm các việc: quét nhà, lau bàn, nấu cơm, giặt áo chính là thực hành đại nguyện, đại hạnh độ tất cả chúng sinh trong tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Đây là học Phật, là chính niệm, là thật tướng của các pháp, nếu có thể quán sát như thế thì pháp hỷ sung mãn, làm sao còn có thể phát khởi lên phiền não? Dùng cách làm việc này áp dụng ở công ty, cũng là tu sáu Ba-la-mật.

Tu học Phật pháp nhất định phải thực hành ngay trong đời sống, nếu không thực hành ngay trong đời sống thì không có chỗ hữu dụng. Nếu có thể hiểu rõ điểm này ngay trong mỗi ngành nghề, Bồ-tát thị hiện các loại thân hình nam, nữ, già, trẻ không giống nhau. Tu học tức là ngay ở bổn phận trong cuộc sống, bình đẳng không có hai, tất cả đều là thứ nhất, không có thứ hai. Nếu sống được như thế thì có thể viên mãn, khắp nơi đều tự tại.

Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

Đạo tràng chúng ta tu Tịnh hầu hết là chọn pháp Trì Danh cho dễ tu chứng . Có nghĩa là Niệm danh hiệu của Phật, gọi là xưng danh niệm Phật cho đến MỘT LÒNG KHÔNG XAO ĐỘNG

Khi đọc lại bộ Mật Tạng, có một đoạn ngài Văn Thù Bát Nhã thỉnh vấn Phật như sau :

“Có phép nhất hạnh tam muội, người tu theo phép ấy, mau được quả Phật Bồ-đề. Mà muốn vào phép tam muội, thời phải ở chỗ vắng lặng, bỏ các điều có thể làm cho tâm ý rối loạn, không chấp tướng mạo, buộc vào một đức Phật, chuyên niệm danh hiệu, vững vàng ngồi xây mặt chính trước Phật, hay ở nơi tên hiệu một đức Phật, niệm niệm nối liền, tức trong niệm ấy, thấy các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Công đức niệm một đức Phật là vô lượng vô biên, cùng với công đức niệm hết thảy các đức Phật không hai. Như vậy, thời biết hằng sa Phật pháp giới, vốn không tướng sai biệt, tuy ngài A-nan là bậc học rộng biện tài giỏi, nhưng trong trăm ngày phần không kịp một phần”.

“Ngọc thanh châu gieo vào nước đục, nước đục quyết phải lắng trong, hiệu Phật gieo vào loạn tâm, loạn tâm quyết thành tâm Phật”.

- Có nghĩa rằng kể cả khi các con Tâm Tán Loạn niệm Phật vẫn nhận được Lợi Ích

Nói rằng chuyên trì danh hiệu một lòng không loạn, vì danh hiệu là biểu đức của Phật, đức đã không thể nghĩ nghị, cho nên danh hiệu cũng không thể nghĩ nghị, danh hiệu công đức đều không thể nghĩ nghị.

Cho nên khi tán loạn mà niệm danh hiệu Phật, gọi là gieo giống làm Phật, còn chuyên trì danh hiệu thời chứng đến bậc bất thối.

Đối với người tu niệm Phật xin hãy cố gắng niệm THẬT NHIỀU - kể cả loạn tâm hay nhất tâm cũng đều tốt hết cả!

Trong bài tựa Phạm Võng, Bồ tát giới có dạy rằng:
Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy
Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc.
Ngày nay dầu còn, khó bảo đảm ngày mai.

Đại chúng! mỗi người nên nhứt tâm cần cầu tinh tấn: Chớ biến nhát trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ; ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham thiền, chớ để thời gian luống qua vô ích mà sau nầy phải ăn năn…”Nhưng phàm muốn làm việc ǵ cho được lợi ích, chúng ta cần phải “biết làm”; ở đây muốn y chỉ lời dạy: “nhiếp tâm niệm Phật, tham thiền”, niệm Phật tham thiền”, lẽ tất nhiên chúng ta phải biết làm sao để “nhiếp tâm”, niệm Phật, tham thiền cho trúng cách đúng phương pháp, tức là biết cách “tọa thiền niệm Phật”. Văy trước khi học về phần thật hành, chúng ta nên hiểu sơ qua về mục đích của phương pháp Tọa thiền.

A) Mục-đích của phương-pháp tọa-Thiền
Tọa thiền là một phương pháp rất thông dụng chẳng những trong đạo Phật mà ở ngoài đạo cũng vẫn có từ xưa.
Tọa thiền nghĩa là ngồi để tham cứu một vấn đề ǵ. Thế nên tọa thiền không phải là một phương pháp chứng quả thành đạo, mà là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để cho tâm không loạn và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi thân mà không để ư đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú trọng hơn cả.

B) Phương-pháp Tọa-Thiền

Dưới đây là phần thực hành mà ngài Hòa Thượng Vạn Đức dạy với tất cả sự kinh nghiệm mà ngái đă thâu hoạch từ nhiều năm. Phần nầy chia làm ba: 1. Điều-thân Thân lúc nào cũng làm duyên trợ cho Tâm, thế cho nên nếu thân có những cữ động thô thiển, khí lực sôi nổi, và lẽ tất nhiên tâm ư sẽ phù động, do đó khó mà nhập định được. Cho nên trước khi Tọa thiền, cần phải điều ḥa thân trước nhất. Vậy phải điều ḥa thân bằng cách nào:
a. Phải điều-dưỡng sự ăn uống.
Sự ăn uống đối với thân rất hệ trọng, v́ thường bệnh phát sanh do nơi sự ăn uống. Có những thực vật hạp với cơ thể người này lại không hạp với người kia và trái lại; dầu sao, không nên dùng những thứ có dầu mỡ nhiều, tránh những chất hăng, kích thích thần kinh như café đậm, rượu, trà đăm, thuốc hút v.v… mà chỉ nên dùng những món ăn sơ sài trong sạch.
Trước giờ tọa thiền, không nên ăn quá no mà chỉ ăn vừa đủ, v́ nếu ăn quá no sẽ làm mệt dạ dày, ngồi không yên ổn. Không ăn chiều lẽ tất nhiên là thích hợp đặc biệt với việc tọa thiền niệm Phật

b) Y-phục

Trước khi tọa thiền phải tắm rửa cho thân thể được sạch sẽ để tránh khỏi sự ngứa ngẩm trong ḿnh.
Sau đó, tiết lạnh th́ mặc áo ấm, trời nóng th́ dùng y phục mỏng mảnh rộng rải và sạch sẽ.
Đai lưng (lưng quần) lúc nào cũng phải nới rộng ra.
Những điều trên đây giúp cho sự hô hấp dễ dàng và không bị lay chuyển v́ thời tiết.
c) Giữ thân cho được ngay thẳng và vững vàng
(Nghĩa là làm thế nào mà khi quên nó, nó không nghiên ngă hay lay động). Muốn được như vậy, chỉ có cách duy nhất là ngồi,v́ đi, đứng hay nằm không thể đạt được hai mục đích vừa nói trên.
Nhưng nếu ngồi mà tḥng hai chân xuống, th́ khi quên, thân lại không vững; hơn nữa lúc ở trong nhà, thất, có bàn ghế giường v.v…th́ không nói chi, nhưng khi ra ngoài vườn tược đồng ruộng hay đến núi rừng để tọa thiền, khó t́m ra chỗ ngồi có thể tḥng chân xuống được dễ dàng .
Thế nên chỉ có cách rút chơn xếp bằng lại là giúp cho chúng ta ngồi ngay thẳng và vững vàng mà thôi.
d) Cách ngồi
Có nhiều cách ngồi mà hành giả cần phải chọn lựa cho thích hợp với ḿnh
Chơn.
1. Toàn già (cũng gọi là kiết già hay Kim Cang tọa)
Gát bàn chân trái lên đùi bên mặt, gát bàn chân mặt lên đùi bên trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.
2. Bán dà, có hai cách:
- Hàng ma tọa: gát bàn chân mặt trên đùi bên trái (như ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát) – Kiết tường tọa: gát bàn chân trái lên đùi bên mặt (như ngài Phổ Hiền Bồ tát).
-Trong ba cách ngồi, khi ngồi phải tập cho hai gối đồng sát xuống chiếu như nhau, hai mông cũng chịu đều như nhau th́ mạch máu không bị cấn tất không bị tê, cũng không nên dùng nệm quá dầy. Một điều nên để ư, là thường thường lúc ban sơ, khi vừa ngồi kiết già hay nghe một chân nặng một chân nhẹ. Để sửa chữa vào khuyết điểm đó, chỉ có cách là dùng hai tay chống xuống chỗ ngồi để nưng toàn thể thân lên và hạ bên chân hay mông nhẹ xuống trước, bên nặng xuống sau, đôi ba lần th́ hai chân hoặc hai mông sẽ đều, không c̣n cảm tưởng nặng nhẹ nữa.
Tay .
Hai bàn tay để ngửa, bàn tay mặt th́ đặt lên trên bàn tay trái, vừa sát bụng và để nhẹ trên hai bàn chân, hai đầu ngón tay cái đâu lại(Tam muội ấn).
Phương pháp để bàn tay như vậy, theo Cổ Đức nói, làm cho điện lực trong thân lưu thông đều đặn, không biến thoát ra ngoài và giúp cho tâm dễ an ổn.
Lưng —Tay chơn đều đâu vào đó rồi, phải lay chuyển thân thể độ ba bốn lần cho nó được ung dung và phải giữ xương sống cho ngay thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu cột xiêu th́ nhà đổ vậy.
Đầu, cổ — Đầu và cổ cũng phải giữ cho ngay, nhưng không được ngước thẳng quá.
Mắt — Mắt hơi nhắm lại, để chỉ c̣n thấy tướng trắng hay sáng sáng bên ngoài thôi; đừng mở hẳn sẽ tán loạn; mà cũng đụng nhắm hẳn sẽ bị hôn trầm.
Miệng — Miệng phải ngậm lại, chót lưỡi để trên chưn răng hàm trên, răng phải để cho thong thả, đùng cắn cứng lại, nhờ đó hơi thở sẻ nhẹ nhàng.
2. Điều Tức
Khi thân đă nghiêm chỉnh rồi, lúc bấy giờ hành giả mới bắt đầu thở ra nhẹ nhàng nhưng cho dài, tâm nghĩ tất cả ô trược trong thân đều tựu theo không khí mà ra ngoài hết .Đến khi hít vô, cũng phải nhẹ nhàng và cho dài, nghĩ bao nhiêu cái chi thanh tịnh ở bên ngoài đều vào trong hết.
Làm như vậy được hai ba lần hay đến năm bảy lần nếu cần, cho trong thân được khoan khoái.
Sau đó phải giữ hơi thở nhẹ nhàng thong thả, suông êm, dài ngắn cho quân b́nh.
Nên để ư, khi điều ḥa hơi thở hành giả thường gặp hai lỗi sau đây.
a) Phong tướng. Tức là hơi thở ra hít vào, nghe có tiếng gió, do v́ thở quá mạnh.b) Suyển tướng, tức là tuy thở ra vào không nghe tiếng nhưng lại gấp rút hoặc rít sáp không thông.
Nếu khi ngồi tĩnh tọa mà thấy hai tướng trên đây, đó là triệu chứng tâm không được an định.
Nếu khéo điều nhiếp, dùng sổ tức thở ra hít vào thong thả, ít lâu sẽ thuần thục, tự nhiên hơi thở sẽ điều ḥa, huyết mạch được lưu thông, trong người sẽ được ung dung khoan khoái.
Thế nên điều ḥa hơi thở là một công phu rất hệ trọng đối với phép tịnh tọa.
3. Điều Tâm
Trước khi tọa thiền, hành giả có phát tâm trước, hoặc sổ tức, hoặc quán bất tịnh, hoặc niệm Phật v.v…
Nếu đă phát tâm niệm Phật, th́ hành giả phải nghĩ Ta bà ngũ trược, nhớp nhơ, là nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ, nơi thân và hiện cảnh, phải làm thế nào thoát ly cho được, tức là phải yểm ly sanh tử nơi Ta bà mà cầu sanh về Cực Lạc.
Hành giả nhớ ngay đến cảnh Cực Lạc thuần vui không khổ, có đủ thắng duyên thắng cảnh trợ lực cho hành giả mau thành Phật quả quảng độ chúng sanh, — đến đức Phật A Mi Đà tướng hảo quang minh, lúc nào cũng duỗi ḷng từ tiếp dẫn chúng sanh về Lạc Quốc.
Lúc bấy giờ hành giả khởi niệm câu dài : “Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo Sư A Mi Đà Phật “ rồi lần lần thâu ngắn lại c̣n sáu chữ “Nam mô A Mi Đà Phật” hay bốn chữ:“A Mi Đà Phật” lúc đầu niệm lớn, sau niệm thầm để nhiếp tâm cho nó an trụ vào đó. Khi niệm ra tiếng hoặc thầm, đều cần phải gắng cho tiếng nổi rơ trong tâm chẩm răi, tâm ư nghe rơ từng tiếng từng chữ, tức là “Quán trí hiện tiền” nếu không, tâm sẽ tạp niệm (tán loạn) hay ngủ gục(hôn trầm).Nếu tán loạn, không rơ, lơ là, hay khi hôn trầm muốn đến hành giả phải cử tâm ngay bằng cách chú ư đến câu niệm Phật.
Có khi hành giả cố gắng kềm tâm, nhưng tâm vẫn chạy và nếu tâm vẫn chạy măi, th́ có cách phải niệm Phật và nghĩ ở đầu hai ngón tay cái, đầu hai ngón chơn cái hoặc nghĩ ở nơi cái rún mà niệm.
Làm như vậy thần kinh hệ sẽ hạ xuống, tức cái tâm sẽ hạ xuống mà bớt tán loạn.
C̣n nếu bị hôn trầm, th́ phải nghĩ ở đỉnh đầu hay ở trán mà niệm th́ sẽ hết, v́ ư chí phấn khởi.
Hoặc hành giả có thể niệm theo phương pháp“Thập niệm kư số” Thập niệm kư số” là khi niệm Phật, phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần măi. Nhưng phải niệm trong ṿng mười câu mà thôi, không được hai mươi hoặc ba mươi câu, lại không được lần chuỗi v́ dùng tâm ghi nhớ. Có thể phân làm hai đoạn từ một đến năm, từ sáu đến mười. Hoặc c̣n thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười.
Cần để ư: niệm nhớ và nghe phải rơ ràng, vọng niệm mới không xen vào được.
Dùng phép này lâu sẽ được nhứt tâm.
Điều tâm là pháp môn tu chủ chánh. Nếu có sự biến chuyển nơi thân, không nên để ư đến, mà phải chuyên ǵn chánh niệm.
C) Phương pháp giải tọa (xả thiền)
Khi xả thiền, hành giả làm ngược lại tất cả, nghĩa là trước hết phải xả nơi tâm, kế xả nơi tức và sau cùng mới xả thân.
1.Xả Tâm. – Hành giả phải nhớ lại coi hiện giờ ḿnh ngồi chổ nào , nảy giờ ḿnh làm ǵì, nhớ coi ḿnh có bị tán loạn hay hôn trầm không, và mặc dầu có hay không, cũng vẫn hồi hướng công đức về tây phương để trang nghiêm Tịnh độ.
2.Xả Tức. – Sau khi xả tâm xong, hành giả mở miệng thở ra vài hơi thật dài để cho khí nóng trong người giảm bớt và để hồi phục lại trạng thái b́nh thường như trước khi tỉnh tọa.
3. Xả Thân. – Tâm, tức điều xả xong, lúc bấy giờ hành giả se sẽ rao động nơi lưng và cổ, khi mạch lạc chạy đều, từ từ duổi hai tay ra, lấy hai bàn tay xoa nhè nhẹ với nhau, rồi xoa lên mắt, kế từ từ mở mắt. Sau đó uốn lưỡi một vài lần và nuốt chút nước miếng.
Tay và mắt xả xong, đến lượt xả hai chân. Trước hết phải lấy hai tay xoa hai bắp vế, rồi tháo lần lần hai chân ra, thoa hai bắp chuối và hai bàn chân. Khi nghe hai bàn chân nóng hết rồi, hành giả chuyển động nhè nhẹ toàn thân rồi đứng dậy, đi tới đi lui.

D) Những điều cần để tọa thiền có kết quả Hôn trầm, là một chướng trong việc tu thiền, thế nên thân phải bớt ngủ nghỉ. Phật dạy đầu hôm cuối đêm th́ tham thiền, nửa đêm th́ tụng kinh để tự tiêu tức, nhưng nếu ḿnh không kham nổi th́ nên bớt sự ngủ nghỉ. Ban đêm th́ chỉ nghỉ ba canh, từ 11 giờ đến 4 giờ sáng thôi, đó là lời dặn ḍ của Cổ đức vậy. C̣n nơi tâm th́ phải có sự điều nhiếp theo ba cách dưới đây: 1. Không niệm tham dục. 2. Không niệm sân hận. Nếu thực hành hai cách này mà không đắc lợi trên đường chánh định, hành giả phải kiểm điểm lại nơi tâm có sanh tội lỗi chi không, hằng ngày phải nói lời dịu dàng, ḥa nhă cho tâm lóng xuống, đối với người và vật, giữ tâm cho mát mẻ và luôn luôn nhẹ nhàng. 3. Ngoài giờ tĩnh toạ phải giữ câu niệm Phật không rời tâm. Tâm tương ứng với chánh định phát ra khinh an, trong thân sẽ thấy khoan khoái. Thân tâm hiệp nhứt, thân cảnh không hai, lúc bấy giờ hành giả ở trong định vắng lặng sẽ thấy thân tướng Phật, nghe Phật thuyết pháp và những cảnh giới nhiệm mầu không sao kể xiết… Đó chính là tướng niệm Phật thiện căn phát hiện do nơi công phu tọa thiền niệm Phật thành công vậy.

HT Thích Trí Tịnh

( Tài liệu nầy chính Hòa Thượng Trí Tinh đă dạy cho sinh viên Tăng, Ni và cư sĩ nam, nữ tại Đại Học Vạn hạnh.)